Thư viện là thiết chế đã xuất hiện ở Việt Nam và trên thế giới từ lâu đời, gắn với lịch sử phát triển, tiến bộ của nhân loại. Đó là nơi thu thập, lưu giữ, xử lý, bảo quản tài liệu để bảo tồn và phổ biến đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, thông tin và hưởng thụ văn hóa của công chúng. Qua đó, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Pháp lệnh Thư viện được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28-12-2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-4-2001, đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của sự nghiệp thư viện Việt Nam, nhất là gần 2 thập kỷ qua.
Sau gần 20 năm triển khai Pháp lệnh Thư viện, sự nghiệp thư viện ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng khích lệ. Mạng lưới thư viện đã phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, từ Trung ương tới địa phương, với hơn 31.000 thư viện, gần 21.000 tủ sách, phòng đọc sách cơ sở, hơn 30 ngàn cán bộ làm công tác thư viện.
Pháp lệnh đã tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức về quản lý và phát triển thư viện. Từ chỗ chỉ là nơi giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc, thu thập, tổ chức khai thác và sử dụng vốn tài liệu dùng chung, đến nay thư viện đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa, không gian học tập sáng tạo của cộng đồng. Khoảng 15 năm trở lại đây, các thư viện đã từng bước hiện đại hóa, đẩy mạnh ứng dụng CNTT, từng bước xây dựng thư viện điện tử, thư viện số, nhằm cung cấp thông tin tới người sử dụng được dễ dàng, thuận tiện. Tuy vậy, nhìn một cách khách quan, hoạt động thư viện ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu đọc, sử dụng và khai thác thông tin của các tầng lớp nhân dân. Nhiều thư viện luôn phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu do ngân sách đầu tư cho thư viện hạn hẹp, thiếu nguồn lực để phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Người làm công tác thư viện còn thụ động trong thực hiện nhiệm vụ, chưa thực sự được quan tâm, tạo điều kiện để phát huy tính chủ động và sáng tạo.
Chính vì những lý do đó, Nhà nước đã giao cho Bộ VHTTDL soạn thảo Dự thảo Luật Thư viện, trình Quốc hội khóa XIV, nhằm góp phần tạo hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sự nghiệp thư viện một cách đồng bộ và hiệu quả. Trong đó có việc: thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động thư viện; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thư viện; tạo hành lang pháp lý phát huy tốt nhất các chức năng của thư viện trong bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, hưởng thụ văn hóa và học tập suốt đời của mọi công dân, góp phần truyền bá tri thức nhân loại, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc...
Quốc hội thông qua Luật Thư viện
ngày 21-11-2019 - Ảnh: Trần Huấn
Chiều ngày 21-11-2019, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội hóa XIV, đã thông qua Luật Thư viện (với tỷ lệ 91,51% số đại biểu Quốc hội tham dự tán thành). Theo đó, Luật Thư viện gồm 6 chương, 52 điều; quy định về thành lập, hoạt động thư viện; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động thư viện; quản lý nhà nước về thư viện... có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7- 2020.
So với Pháp lệnh Thư viện năm 2000, Luật Thư viện ra đời lần này đã có những điểm mới, cần thiết cho sự phát triển thư viện ở Việt Nam:
Thứ nhất, đó là bổ sung loại hình thư viện ngoài công lập. Pháp lệnh Thư viện năm 2000 quy định hệ thống thư viện gồm 2 loại hình: Thư viện công cộng và Thư viện chuyên ngành, đa ngành. Luật Thư viện 2019 đã quy định, thư viện được tổ chức theo 2 mô hình: Thư viện công lập (do Nhà nước đầu tư) và Thư viện ngoài công lập (do tổ chức hoặc cá nhân thành lập). Như vậy là bên cạnh các thư viện công lập do Nhà nước đầu tư, thì Điều 9 của Luật Thư viện đã quy định loại hình thư viện ngoài công lập (do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thành lập). Đây cũng là điểm mới rất quan trọng trong chính sách xã hội hóa thư viện của Luật thư viện, để thu hút mọi nguồn lực (tổ chức và cá nhân trong xã hội) tham gia xây dựng, phát triển sự nghiệp thư viện nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Cụ thể, thư viện gồm các loại sau đây:
1 - Thư viện quốc gia Việt Nam;
2 - Thư viện công cộng;
3 - Thư viện chuyên ngành;
4 - Thư viện lực lượng vũ trang;
5 - Thư viện đại học;
6 - Thư viện cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục khác;
7 - Thư viện cộng đồng và thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng;
8 - Thư viện của tổ chức, cá nhân nước ngoài có phục vụ người Việt Nam.
Thứ hai, lấy ngày 21- 4 là Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam. Lần đầu tiên, ngày 21-4 hằng năm được đưa vào Luật Thư viện, trở thành Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam (tại Điều 30), nhằm hình thành thói quen đọc trong gia đình, trường học, cơ quan, tổ chức trong phạm vi cả nước... Qua đó thúc đẩy, phát triển văn hóa đọc ở nước ta.
Thứ ba, mở rộng đối tượng được thành lập thư viện. Theo Pháp lệnh Thư viện năm 2000, chỉ có tổ chức của Việt Nam có quyền thành lập thư viện. Các tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam có quyền tham gia vào các hoạt động do thư viện tổ chức. Luật Thư viện lần này đã mở rộng, xã hội hóa việc thành lập thư viện. Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư (kể cả người nước ngoài) đều có quyền thành lập thư viện ngoài công lập, khi đáp ứng đủ các điều kiện do Luật Thư viện quy định (tại Điều 20 của luật này).
Thứ tư, xây dựng và cung cấp dịch vụ thư viện số. Thư viện số giữ dưới dạng số, mà người sử dụng truy cập, khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng. Xây dựng cơ sở dữ liệu, thư viện số là chức năng, nhiệm vụ của tất cả các loại hình thư viện. Việc phát triển tài nguyên thông tin số được dựa trên cơ sở thu thập tài liệu số hoặc số hóa tài liệu của thư viện. Người sử dụng được cung cấp quyền truy cập trực tiếp tới tài nguyên thông tin số và các dạng khác.
Có thể nói, phát triển thư viện số và hiện đại hóa thư viện trong hiện tại và tương lai, hướng tới phục vụ cách mạng công nghiệp lần thứ 4, là một trong những điểm sáng của Luật Thư viện. Đây cũng là tiêu chí để đánh giá tính cập nhật, hiện đại của Luật thư viện. Từ đó nhằm hướng tới việc điều chỉnh những vấn đề mà ngành thư viện Việt Nam đã và đang phải giải quyết, nếu không muốn tụt lại phía sau, so với khu vực và thế giới.
Thứ năm, đẩy mạnh liên thông giữa các thư viện. Liên thông thư viện là một trong những điểm mới của Luật Thư viện, nhằm bảo đảm hoạt động thư viện theo hướng hiện đại, chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin giữa các thư viện. Liên thông giữa các thư viện được Nhà nước đầu tư với các thư viện khác, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thư viện, khai thác hiệu quả nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước. Điều 5 quy định trách nhiệm Nhà nước đầu tư cho hoạt động liên thông. Khoản 4, Điều 24 quy định thực hiện liên thông là nguyên tắc hoạt động chung của cả thư viện công lập và thư viện ngoài công lập. Chương III, luật quy định về xây dựng tài nguyên thông tin, phát triển thư viện số làm cơ sở cho việc liên thông. Điều 29 nhấn mạnh, tài nguyên thông tin được xây dựng từ ngân sách nhà nước phải được liên thông, chia sẻ giữa các thư viện, thư viện được Nhà nước ưu tiên đầu tư làm nòng cốt trong hoạt động liên thông. Điểm c, khoản 2, Điều 48 luật quy định, Bộ VHTTDL có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện liên thông thư viện. Khoản 5, Điều 46 Luật quy định trách nhiệm tổ chức liên thông thư viện của cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý thư viện. Đặc biệt, Luật Thư viện cũng đã nhấn mạnh liên thông giữa các thư viện phải phù hợp với quy mô và đối tượng phục vụ, nhằm bảo đảm sự liên thông trong tra cứu thông tin thay vì quy định chung chung như trước.
Thứ sáu, định kỳ hằng năm đánh giá hoạt động thư viện. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Thư viện 2000. Theo đó, việc đánh giá hoạt động thư viện được thực hiện đối với tất cả các loại thư viện (kể cả thư viện công lập và thư viện ngoài công lập), nhằm mục đích phục vụ công tác quản lý nhà nước về thư viện và nâng cao hoạt động thư viện. Như vậy, định kỳ hằng năm tất cả các thư viện đều phải được đánh giá hoạt động theo Tiêu chuẩn quốc gia về Bộ chỉ số văn hóa hoạt động thư viện.
So với Pháp lệnh Thư viện năm 2000, Luật Thư viện lần này đã quy định cụ thể, rõ nét chính sách của nhà nước về phát triển sự nghiệp thư viện. Nhà nước đầu tư cho thư viện công lập các nội dung sau: ưu tiên đầu tư cho Thư viện quốc gia Việt Nam, thư viện cấp tỉnh và thư viện có vai trò quan trọng; hiện đại hóa thư viện; xây dựng thư viện số, tài nguyên thông tin dùng chung, tài nguyên thông tin mở; liên thông thư viện trong nước và nước ngoài; sưu tầm, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu cổ, quý hiếm, các bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học; tổ chức dịch vụ thư viện lưu động, luân chuyển tài nguyên thông tin phục vụ khu vực biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và phát triển nguồn nhân lực thư viện; nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến trong hoạt động thư viện.
Luật cũng quy định Nhà nước hỗ trợ đầu tư các nội dung sau: cung cấp dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực thư viện, phát triển văn hóa đọc; duy trì và phát triển thư viện cộng đồng, thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng không vì mục tiêu lợi nhuận; cước vận chuyển tài liệu thư viện phục vụ nhiệm vụ chính trị, khu vực biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; hợp tác quốc tế về thư viện. Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động quy định tại khoản 1, khoản 2.
Quản lý nhà nước về thư viện, Luật quy định Bộ VHTTDL và một số bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phát triển nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ chuyên gia và nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực thư viện (điểm c, khoản 2, Điều 48 và Điều 49...).
Rõ ràng, việc Quốc hội nước ta ban hành Luật Thư viện là rất kịp thời và cần thiết, phù hợp với xu thế của thời đại. Bởi lẽ đã hàng trăm năm nay, hoạt động thư viện chủ yếu dựa trên phương thức truyền thống với các tài liệu in như: sách, báo, tài liệu.... Vì vậy, việc ra đời Luật Thư viện ở nước ta sẽ góp phần thay đổi nhận thức và tư duy (cho cả cán bộ thư viện và người quản lý thư viện) trước ngưỡng cửa cách mạng công nghệ 4.0. Đồng thời tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi nhất để các thư viện Việt Nam tiến hành nhanh và mạnh mẽ, chuyển từ hoạt động thư viện truyền thống sang hiện đại (với việc xây dựng thư viện điện tử - thư viện số, thư viện ảo), đáp ứng nhu cầu phong phú của người dân trong xã hội hiện đại, văn minh. Luật Thư viện, sẽ là một tấm hộ chiếu để ngành thư viện Việt Nam vững bước đồng hành cùng đất nước trong những thập niên của TK XXI, phục vụ hiệu quả cho tiến trình CNH-HĐH đất nước, vì một “Tổ quốc Việt Nam hùng cường, giàu mạnh và giàu bản sắc văn hóa”.
Tác giả: Nguyễn Hữu Giới
Nguồn: Tạp chí VHNT số 427, tháng 1-2020