TRI THỨC BẢN ĐỊA CỦA CÁC DÂN TỘC ÍT NGƯỜI Ở TÂY BẮC

Tri thức bản địa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, các dân tộc ít người ở vùng Tây Bắc nói riêng là một phức hợp những kinh nghiệm được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ, thực tiễn sản xuất, thực hành xã hội. Tri thức bản địa bao gồm các lĩnh vực như: sản xuất lương thực, thực phẩm, chăn nuôi; cất trữ, chế biến thức ăn; thu hái, sử dụng các cây thuốc, cách chữa bệnh; truyền thụ kiến thức qua các thế hệ, quản lý, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên; tổ chức quản lý cộng đồng… Đây là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa, đồng thời tác động đến mọi mặt của đời sống, nhất là bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế, quản lý xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, vấn đề chiến lược của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (7-1998) đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn liền với phong trào thi đua yêu nước. Nội dung cơ bản của công tác xây dựng đời sống văn hóa mới là: phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói giảm nghèo; xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc; xây dựng nếp sống văn minh trong giao tiếp, công tác, việc cưới, việc tang, lễ hội nhằm giữ gìn, phát huy thuần phong mỹ tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; xây dựng con người mới, gia đình văn hóa, xây dựng làng ấp, bản, khu phố văn hóa; xây dựng môi trường văn hóa sạch, đẹp, an toàn…

Khu vực miền núi phía Bắc nói chung, các tỉnh Tây Bắc nói riêng có vị trí chiến lược quan trọng, nơi cư trú lâu đời của các dân tộc ít người. Tri thức bản địa của đồng bào rất phong phú về tự nhiên (sinh quyển, thảm thực vật, nguồn nước, vốn rừng…), về xã hội (quản lý xã hội, truyền thống tự quản, quản trị xã hội ở miền núi…), về sản xuất (tập quán canh tác, phương thức sản xuất…), về văn hóa, y tế… cần được kế thừa, phát huy trong xây dựng đời sống văn hóa mới.

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các tỉnh Tây Bắc đã tích cực bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, từng bước xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn xuất hiện tình trạng mê tín, dị đoan, duy trì tập quán, hủ tục lạc hậu trong đời sống của một bộ phận đồng bào. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một số dân tộc ít người, các thế lực thù địch đã tiến hành truyền đạo trái phép, gây mất trật tự an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, đe dọa an ninh quốc gia.

Trước thực trạng đó, phát huy giá trị tri thức bản địa nhằm khơi dậy tính tự tôn, tự hào dân tộc của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa tộc người, chống lại âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, góp phần xây dựng các tỉnh Tây Bắc trở thành phên dậu vững chắc, địa bàn phát triển bền vững, giàu về vật chất, phong phú về tinh thần, ngày càng văn minh, hiện đại. Bảo tồn, phát huy giá trị tri thức bản địa của đồng bào các dân tộc ít người vì sự phát triển bền vững nói chung, xây dựng đời sống văn hóa mới nói riêng là vấn đề quan trọng, góp phần giữ gìn bản sắc, những giá trị tốt đẹp của văn hóa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu trên, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, những tri thức bản địa của các dân tộc ít người. Dựa theo chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, các cơ quan chuyên trách cần đẩy mạnh công tác thu thập thông tin trên cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Huy động sự tham gia của nhiều ngành, cấp, của cán bộ, đồng bào các dân tộc (trước hết là tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở, các già làng, trưởng bản). Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa tại các địa phương. Vừa đảm bảo chất lượng chuyên môn, vừa biết tiếng dân tộc thiểu số, am hiểu văn hóa, phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa bàn phụ trách. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước cần kịp thời ban hành chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp, nhà ở, chế độ nghỉ ngơi... đối với cán bộ văn hóa (đặc biệt là cán bộ văn hóa cơ sở), người dân tộc thiểu số, nghệ sĩ, nghệ nhân công tác ở các tỉnh Tây Bắc. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách để ngăn ngừa, uốn nắn những sai lệch, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời giải quyết.

Thứ hai, cần phát huy vai trò của các nhà khoa học, thực hiện có hiệu quả chương trình, dự án phát triển đối với công tác bảo tồn, phát huy những tri thức bản địa của các dân tộc ít người. Tập trung nghiên cứu sâu rộng, có hiệu quả những di sản tri thức của đồng bào các dân tộc, đi đôi với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào mục tiêu bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ban tặng. Đăng ký sở hữu trí tuệ tri thức bản địa cho đồng bào các dân tộc ít người. Triển khai có hiệu quả chương trình, dự án phát triển liên quan đến các vùng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc. Các cấp, các ngành quản lý phải đặc biệt chú ý tới vai trò của tri thức bản địa trên mọi lĩnh vực. Quan tâm về những tri thức sử dụng, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chú trọng bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số để tạo ra năng lực nội sinh chống lại sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, xây dựng nền văn hóa, thống nhất trong đa dạng.

Thứ ba, cần đẩy mạnh việc sưu tầm, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa và tri thức bản địa các dân tộc thiểu số theo từng vùng, từng dân tộc cụ thể. Với cơ sở về tự nhiên, dân cư, các điều kiện vật chất khác nhau nên các dự án, chương trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đối với các dân tộc cũng có sự khác nhau. Vì vậy, phải gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo từng vùng, từng dân tộc cụ thể. Để làm tốt công việc này, đầu tiên phải điều tra, nghiên cứu, sưu tầm những di sản văn hóa ở từng vùng, từng dân tộc cụ thể. Trong đó, chú trọng điều tra nhu cầu của người dân để lựa chọn các giá trị cần bảo tồn, đưa ra các kết luận có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục về bản sắc văn hóa của từng vùng, từng dân tộc. Từ việc điều tra, kiểm kê, đánh giá… các nhà quản lý các cấp (nhất là ở địa phương) nên phối hợp với các ngành chuyên môn tổ chức tuyên truyền, giáo dục rộng rãi qua sách, báo, tờ rơi, các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời giáo dục ở nhà trường. Tại các vùng có đồng bào thiểu số sinh sống, các cấp ủy đảng, chính quyền cần xây dựng chương trình, tổ chức thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của mỗi người dân, cả cộng đồng dân tộc thiểu số về việc sưu tầm, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số. Cùng với cộng đồng từng dân tộc thiểu số bàn bạc, tìm ra những giải pháp khả thi để duy trì, phát huy bản sắc văn hóa của mình.

Bên cạnh hoạt động tuyên truyền, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc sưu tầm, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số. Coi trọng vấn đề bảo tồn động nghĩa là: đưa các giá trị văn hóa về với môi trường sinh hoạt của cộng đồng, nơi đã sản sinh ra. Mặt khác, cần xây dựng chính sách về đầu tư quảng bá thương hiệu, xây dựng mô hình thực nghiệm truyền dạy, chính sách tôn vinh các nghệ nhân, nghệ sĩ dân gian. Đồng thời, đầu tư kinh phí cho các hoạt động sưu tầm, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số một cách thỏa đáng. Để tăng kinh phí, ngoài nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước, các tỉnh cần tranh thủ nhiều nguồn tài trợ theo hướng đa dạng hóa nguồn đầu tư như: nhân dân tự nguyện đóng góp, tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ...

Thứ tư, cần thực hiện tốt công tác cải tạo hủ tục, tập quán lạc hậu, phòng chống các tệ nạn xã hội, hiện tượng vi phạm quyền bình đẳng dân tộc về văn hóa nói riêng, quyền bình đẳng dân tộc nói chung. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, kiên quyết loại bỏ những hành vi phản văn hóa ra khỏi đời sống cộng đồng. Nghiêm trị theo pháp luật những phần tử lợi dụng các hoạt động văn hóa vào mục tiêu trục lợi kinh tế hoặc chính trị, vi phạm quyền bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa giữa dân tộc. Ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa đồi trụy, độc hại. Đồng thời phải đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi các hủ tục, tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Cần đảm bảo bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa giữa các dân tộc ở những vùng có điều kiện phát triển với các dân tộc ở những vùng còn khó khăn, nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, giữa dân tộc đa số với các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu về văn hóa tinh thần của nhân dân. Xây dựng chủ trương, chính sách dân tộc phù hợp thực tế, nhất là chính sách về văn hóa các dân tộc. Chú trọng công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về truyền thống, lòng tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đồng thời, chủ động phòng, chống các biểu hiện, hành vi chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện vật chất, tinh thần để đồng bào các dân tộc thiểu số xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chân chính.

Thứ năm, huy động sự tham gia của đồng bào các dân tộc vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của từng dân tộc. Cấp ủy đảng, chính quyền địa phương cần có kế hoạch vận động đồng bào các dân tộc tham gia vào sự nghiệp phát triển văn hóa của dân tộc, địa phương mình sinh sống. Trong quá trình vận động phải chú ý đúng mức tới thế hệ trẻ, đặc biệt là đội ngũ trí thức trẻ người dân tộc thiểu số. Đây là nguồn nhân lực chất lượng cao, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển, sự bứt phá trong phát triển của từng tộc người. Cần giúp thế hệ trẻ nói chung, trí thức trẻ người dân tộc thiểu số nói riêng thấy được niềm tự hào dân tộc, nâng cao được nhiệt tình, tâm huyết, trách nhiệm đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa. Từ đó, họ tự nguyện trở về phục vụ quê hương sau khi học xong hoặc dù đang sinh sống, làm việc ở nơi khác cũng đóng góp tài trí, công sức vào sự nghiệp phát triển văn hóa quê hương.

Chính quyền địa phương ở các tỉnh Tây Bắc cần chủ động phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ của đồng bào các dân tộc vào sự nghiệp phát triển văn hóa. Lựa chọn những hình thức phù hợp để đồng bào các dân tộc thiểu số tích cực, chủ động xây dựng mô hình, thực hiện biện pháp phát triển văn hóa phù hợp nhằm thực hiện bình đẳng dân tộc về văn hóa trên cơ sở huy động sức mạnh đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào các dân tộc. Chỉ thật sự tôn trọng các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc mới lôi cuốn được đông đảo nhân dân tham gia thực hiện bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực văn hóa.

Nghiên cứu giá trị tri thức bản địa của các dân tộc ít người ở vùng Tây Bắc có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, phát triển văn hóa, phát triển con người. Trong hoàn cảnh hiện nay, phát huy những giá trị tri thức bản địa của các dân tộc ít người ở vùng này, tạo điều kiện phát triển bền vững văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh... Chú trọng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của các dân tộc ít người, tiếp thu tinh hoa văn hóa từ bên ngoài, tích cực sáng tạo giá trị văn hóa mới góp phần không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương vùng Tây Bắc giàu mạnh.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 379, tháng 1-2016

Tác giả : BÙI BẠCH ĐẰNG - NGUYỄN VIỆT KHOA

;