Sự phát triển nhận thức của Đảng về công bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới

Công bằng xã hội là một giá trị xã hội phản ánh sự tương xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ, phẩm chất, năng lực với cơ hội, điều kiện phát triển. Công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, không ngừng đổi mới tư duy, nhận thức ngày càng rõ hơn về công bằng xã hội.

1. Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu

Tại Đại hội VI, Đảng xác định mục tiêu của đổi mới bao gồm ba yếu tố: Đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, thì đến Đại hội X xác định công bằng xã hội là một trong những mục tiêu đó là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cụm từ “xã hội công bằng” được thể hiện đầy đủ với tính chất là một thành tố trong mục tiêu tổng quát, có mối quan hệ chặt chẽ với các thành tố khác. Trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng tiếp tục bổ sung và diễn đạt lại các đặc trưng cơ bản, trong đó đặc trưng thứ nhất được xác định là: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đến Đại hội XII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (1). Việc xác định “công bằng” là một trong những mục tiêu tổng quát của mô hình xã hội chủ nghĩa ở nước ta, là một mục tiêu trong hệ mục tiêu của đổi mới đã thể hiện bước phát triển quan trọng của Đảng trong nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của công bằng xã hội. Công bằng chính là một thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta hướng tới, đồng thời là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Hướng tới mục tiêu công bằng theo quan điểm của Đảng ta là sự thống nhất biện chứng giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc, giai cấp, xã hội và con người.

2. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội

 Tại đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” (2). Cụ thể hóa Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII nhấn mạnh, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa nông thôn với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa các tầng lớp xã hội. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội IX: “...phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường” (3). Đến Đại hội X, vấn đề trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế, xã hội” (4). Đến Đại hội XI, XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán là: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước” (5). Các thành tố đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, còn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Thực chất của bảo đảm công bằng xã hội ở nước ta là giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế với thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả vì con người, cho con người. Phát triển nền kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, nhưng không phải phát triển, tăng trưởng bằng mọi giá, mà phải đảm bảo công bằng trong các yếu tố kinh tế. Không chờ kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế. Mỗi chính sách phát triển kinh tế đều phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.

3. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển

Tại Đại hội VI, Đảng ta cho rằng, “Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xóa bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương, áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế” (6). Đến Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu” (7). Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII chỉ rõ: “Phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng, đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh” (8). So với Đại hội VII, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã bổ sung một hình thức phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh. Đến Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội” (9). So với các Đại hội trước đó, Đại hội XI cũng bổ sung thêm phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội bên cạnh phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán này. Như vậy, công bằng xã hội không chỉ được thực hiện thông qua phân phối chủ yếu dựa vào kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà còn theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Bên cạnh đó, với những đóng góp khác không phải trong hoạt động kinh tế, như những cống hiến trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... cũng được tính đến nhằm bảo đảm cho người lao động được hưởng lợi ích tương xứng. Những người có công trong bảo vệ Tổ quốc hoặc khi thi hành nhiệm vụ xã hội cũng được xã hội bù đắp một cách thỏa đáng. Cách giải quyết vấn đề công bằng xã hội dựa trên sự đóng góp, cống hiến sẽ khuyến khích mọi người chủ động tích cực trong lao động, tạo động lực thúc đẩy phát triển xã hội.

4. Công bằng xã hội được thực hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội

Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam… có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” (10). Các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế tư nhân là động lực quan trọng trong nền kinh tế hoàn toàn không hàm ý sự phân biệt đối xử, mà với ý nghĩa là tùy thuộc vào chức năng của mỗi thành phần kinh tế để xác định vai trò mỗi loại hình. Trên lĩnh vực chính trị, công bằng xã hội được thể hiện ở chỗ, mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật; dân chủ được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên lĩnh vực văn hóa xã hội, mọi người dân, mọi gia đình đều có nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi trong sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tham gia xây dựng môi trường văn hóa cũng như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, vùng, miền và các giai tầng xã hội; phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng. Công bằng xã hội phải gắn với hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm phát triển không đều giữa các nhóm người, vùng, miền, dân tộc, tôn giáo, trong đó đặc biệt là quan tâm đến các bộ phận yếu thế trong xã hội. Đảng ta nhấn mạnh: “Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội” (11). Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc, đảm bảo công bằng trong thực hiện nghĩa vụ đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và thụ hưởng những thành quả đó. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc.

5. Công cụ, điều kiện bảo đảm công bằng xã hội

Đảng ta xác định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế, xã hội” (12). Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững được coi là công cụ, điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời, chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế; phát triển dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội với Nhà nước; tạo điều kiện để trợ giúp cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên... Huy động và kết hợp giữa các nguồn lực, phát huy sức sáng tạo của nhân dân, thu hút mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân…; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.

Cùng với sự phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong những năm đổi mới, Đảng ta đã từng bước bổ sung, hoàn thiện quan điểm về công bằng xã hội. Sự phát triển đó có ý nghĩa quyết định đối với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực nghiêm túc quan điểm của Đảng về công bằng xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

_______________

1, 5, 10, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.16, 30, 102-103, 135, 25-26.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.88-89.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.72.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.10.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.47.

9. ĐảngCộng sảnViệtNam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.74.

Tác giả: Trương Tất Thịnh

Nguồn: Tạp chí VHNT số 437, tháng 9-2020

;