1. Văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, ngày càng gia tăng mạnh mẽ, nhất là khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) bùng nổ. Đây là quá trình hợp tác, đấu tranh để phát triển; đòi hỏi vừa phải tăng cường đối thoại, hợp tác với những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, vừa phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa, đòi hỏi cơ bản và cấp thiết là vừa phải bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vừa coi trọng và bảo vệ sự đa dạng văn hóa trên phạm vi toàn thế giới. Việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; giữa phát triển văn hóa dân tộc và hội nhập quốc tế về văn hóa sẽ làm phong phú cho văn hóa đất nước, thúc đẩy văn hóa dân tộc phát triển.
Festival Hoa Đà Lạt - Ảnh: Hà Hữu Nết
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, “Chúng ta có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hóa Việt Nam” (1). Chúng ta có điều kiện tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới, các kinh nghiệm quốc tế trong quản lý văn hóa, xã hội để phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đang đặt văn hóa dân tộc trước những thách thức, những “nguy cơ bất ổn”. Đó là khuynh hướng phổ biến các môtíp văn hóa chung toàn cầu. Khuynh hướng đó có thể sẽ dẫn đến sự “đồng nhất” các giá trị văn hóa, san bằng, “đồng hóa” các nền văn hóa của các dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa có nguy cơ đe dọa xóa bỏ sự khác biệt về văn hóa giữa các quốc gia dân tộc, giữa các vùng, các khu vực, làm nghèo sự đa dạng của bức tranh văn hóa nhân loại. Nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống dẫn đến việc tự xóa bỏ ý thức dân tộc, đe dọa làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa - nhân tố được coi là hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của các dân tộc và nhân loại. Tổng Giám đốc UNESCO đã cảnh báo: “Xu hướng toàn cầu hóa có thể gây phương hại tới tính sáng tạo và đa văn hóa của thế giới, tạo ra sự đồng nhất nghèo nàn về văn hóa” (2).
Văn hóa là yếu tố chính trong lý thuyết “Quyền lực mềm” của GS Joseph Nye. Giá trị văn hóa quốc gia trở sẽ thành sức mạnh mềm phổ quát khi thúc đẩy các giá trị và lợi ích chung mà các quốc gia, dân tộc cùng chia sẻ. Từ đó, cho thấy phát triển văn hóa dân tộc không chỉ là bảo tồn những giá trị truyền thống mà còn là phát huy giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc ra thế giới, cũng như cần thiết phải định hình được vị trí, vai trò, đóng góp của văn hóa dân tộc trong dòng chảy lịch sử văn hóa nhân loại hiện tại và tương lai. Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã yêu cầu: “Khẩn trương (...) xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam (…) Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa quốc tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới” (3). Nhận thức sâu sắc quan điểm “Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc” (4) để chủ động ứng phó với sự xâm lăng văn hóa, đồng hóa văn hóa có nguy cơ ngày càng thâm độc và tinh vi hơn. Bởi với tiềm lực kinh tế, quân sự, công nghệ và truyền thông hiện đại, một số thế lực cường quyền vẫn đang ra sức thực hiện âm mưu xâm lược, chuyển hóa những quốc gia, dân tộc khác bằng “quyền lực mềm”, khi mà việc sử dụng “quyền lực cứng” tỏ ra không thành công như mong đợi!
Cuộc CMCN 4.0, sự hội tụ giữa vật lý, công nghệ thông tin, công nghệ số và công nghệ sinh học mang lại cơ hội lớn cho các nước đang phát triển nói chung, trong đó có nước ta, có thể rút ngắn quá trình phát triển bằng cách “đi tắt, đón đầu”, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn. Đây là cơ hội để nước ta nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của các ngành, nghề truyền thống cũng như việc tiếp cận thị trường thế giới trên nền tảng số/ Internet để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững với giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu. CMCN 4.0 đang và sẽ mang lại cơ hội cho phát triển nền kinh tế số, xã hội số, văn hóa số, sản xuất và dịch vụ thông minh; các loại hình kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa, du lịch, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, logistic, robotics... thông minh hóa. CMCN 4.0 còn giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, quản lý mang lại lợi ích to lớn cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Cần “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc CMCN 4.0 gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh” (5).
Cuộc CMCN 4.0 có tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực văn hóa, con người. Kết nối Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây… giúp mọi người tiếp cận lượng thông tin đồ sộ của toàn nhân loại. Các phương tiện truyền thông xã hội (Facebook, Twitter, YouTube, Instagram, Tiktok...) đã trở thành hiện tượng văn hóa mới; trở thành nơi diễn ra các hoạt động thông tin, văn hóa đa dạng và phong phú, chứa đựng nhiều giá trị và cả phản giá trị, lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa và hạn chế, phá hoại sức mạnh mềm văn hóa quốc gia…
Việc hình thành các phương tiện truyền thông xã hội, các phương thức mới liên kết xã hội trong môi trường mạng đang đặt ra những vấn đề mới trong công tác quản lý, phát triển văn hóa, thông tin. Cần chủ động sử dụng và phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông truyền thống và các phương tiện truyền thông hiện đại trong tổ chức các hoạt động văn hóa để thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ.
Ngày nay, chúng ta đã nói nhiều đến phát triển công nghiệp sáng tạo, “công nghiệp văn hóa” trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 bùng nổ. Phát triển ngành “công nghiệp văn hóa” đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới và nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa” (6). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu lên yêu cầu mới là phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam và tiếp thu, vận dụng có hiệu quả tinh hoa văn hóa nhân loại: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng điểm, trọng tâm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới” (7). Tuy nhiên, cần nhận thấy mặt trái của công nghệ, những thay đổi về cách thức giao tiếp, thông tin và văn hóa trên Internet cũng đặt con người và văn hóa xã hội gặp nhiều nguy hiểm, bất trắc khó lường... Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong các lĩnh vực an ninh mạng, an ninh văn hóa, an ninh con người, an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia... Các phương tiện truyền thông xã hội, mạng viễn thông, internet tạo thuận lợi cho giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời cũng diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ thể chế chính trị, an ninh quốc gia, an ninh văn hóa, an ninh con người... Mặt trái của CMCN 4.0 còn có thể gây ra sự bất bình đẳng về văn hóa, xã hội. Nó có thể phá vỡ thị trường lao động truyền thống, làm gia tăng mức chênh lệch về cơ hội tiếp cận công nghệ và phúc lợi xã hội về văn hóa của các nhóm dân cư; làm gia tăng sự xâm lược, đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch, sự xâm nhập của các hiện tượng phản văn hóa, phi văn hóa, phi nhân tính, không phù hợp với nền tảng tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cần có sự chủ động ứng phó và kiểm soát tốt.
2. Phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
Việt Nam là đất nước có nền văn hóa, văn hiến lâu đời, có bề dày truyền thống hàng nghìn năm. Nền văn hóa đó có hệ giá trị và bản sắc riêng và không bị đồng hóa bởi bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Hệ giá trị và bản sắc đó đã tạo nên sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam. Trong một thế giới đa dạng về văn hóa, bản sắc quốc gia (national identity), bản sắc văn hóa của từng quốc gia, dân tộc có vai trò quan trọng trong việc phát triển và xây dựng đất nước đó từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Bản sắc văn hóa tuy rất sâu sắc nhưng cũng không phải là bất biến, nó có thể vận động, bổ sung, phát triển để phù hợp hơn với thực tiễn sống động, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Vì vậy, cần coi trọng việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại. Cân nhắc, lựa chọn, tiếp thu những giá trị khoa học, hợp lý, nhân văn, tiến bộ, phù hợp với điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với thể chế chính trị và nền tảng tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia (về chính trị, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, con người, nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…), nguồn lực văn hóa đang được nhiều quốc gia coi là một “sức mạnh mềm” quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị trí, vai trò trên trường quốc tế. Thuật ngữ “sức mạnh mềm”, “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam” lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam và sức mạnh con người Việt Nam đã trở thành cội rễ của sức mạnh mềm văn hóa dân tộc, là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực và động lực to lớn của đất nước trong sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Để lan tỏa, phát huy hơn nữa “sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam” trên trường quốc tế trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một là, quan tâm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa” (8). Cần đặc biệt coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) đã được cha ông ta sáng tạo và gìn giữ qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Đó là “vẻ đẹp tự nhiên đặc biệt và có tầm quan trọng về mặt thẩm mỹ” của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái trên mọi miền của Tổ quốc… Tôn tạo và phát huy giá trị các di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới đã được Tổ chức UNESCO công nhận trong những năm qua, đồng thời tiếp tục hoàn thiện hồ sơ, trình UNESCO xem xét, công nhận di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới cho những di sản văn hóa và di sản thiên nhiên Việt Nam “có giá trị phổ quát nổi bật”, “là minh chứng độc đáo cho truyền thống văn hóa hoặc một nền văn minh đang tồn tại, đã biến mất, hoặc có nguy cơ bị biến mất”... là con đường ngắn nhất để lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra bên ngoài, đồng thời cũng tạo ra nguồn lực trực tiếp cho phát triển kinh tế, văn hóa, du lịch, dịch vụ ở nhiều địa phương nước ta. Cần có cơ chế và giải pháp nhằm xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc với việc xây dựng nền văn hóa và con người mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Hai là, sáng tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa mới có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao trên nền tảng văn hóa truyền thống và cách mạng Việt Nam
Đây là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để tiếp tục gia tăng thêm cơ tầng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam và lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra thế giới. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp và phong cách sáng tạo văn hóa vì mục đích đúng đắn và lành mạnh. Phấn đấu có nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần yêu nước, tiến bộ, dân chủ, nhân văn, làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam đương đại trong giao lưu và hội nhập quốc tế. Tạo động lực cho các văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, khoa học, giáo dục sáng tạo nhiều hơn những công trình văn hóa, nghệ thuật, khoa học, công nghệ… mang dấu ấn vượt thời gian, có tầm ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế, thể hiện những mối quan tâm chung của nhân loại, góp phần giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu và thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc; đấu tranh với các hành vi, hoạt động chống lại loài người, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, hợp tác phát triển, bảo đảm an ninh mạng, an ninh văn hóa, an ninh con người, bảo đảm quyền con người, phòng chống biến đổi khí hậu, dịch bệnh… Đồng thời, kiên quyết phê bình, đấu tranh với những sản phẩm “sáng tạo” phản văn hóa, lai căng, mất gốc, sùng ngoại... nhân danh “đổi mới” và “hội nhập quốc tế”.
Khẩn trương nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới, làm cơ sở, định hướng cho sáng tạo văn hóa thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế, khi mà: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (9).
Ba là, lan tỏa giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các danh nhân văn hóa Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là biểu tượng sáng ngời của sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta (…) Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử (…) Hồ Chủ tịch là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản” (10). Cần tổ chức tuyên truyền, giới thiệu sâu rộng, thường xuyên, liên tục và có hệ thống bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và nhân dân thế giới; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng thâm nhập sâu rộng, bền chặt trong đời sống tinh thần của xã hội, trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Có thêm nhiều hình thức tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ngoài (xây dựng tượng đài, công viên, bảo tàng, nhà lưu niệm, viện nghiên cứu... mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh; tổ chức triển lãm, hội thảo quốc tế, xuất bản ấn phẩm, phim ảnh, sáng tác thơ ca về cuộc đời, sự nghiệp của Người). Tổ chức tuyển chọn, biên dịch, xuất bản các tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tiếng nước ngoài (tiếng Trung Quốc, Anh, Nga, Pháp, Đức, Bồ Đào Nha, Lào…). Tiếp tục đẩy mạnh giới thiệu tiểu sử, sự nghiệp và trước tác của các danh nhân tiêu biểu của dân tộc Việt Nam như: anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi; đại thi hào Nguyễn Du; danh nhân văn hóa, nhà giáo Chu Văn An; đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều danh nhân lịch sử, văn hóa, quân sự tiêu biểu của dân tộc ta..., làm lan tỏa, củng cố giá trị văn hóa Việt Nam trong trong lòng nhân dân thế giới.
Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và ngoại giao văn hóa
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại (…) Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế (…) Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia (…) Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác” (11). Cần tích cực triển khai thực hiện quan điểm chỉ đạo này bằng các kế hoạch, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, văn hóa, du lịch, thể thao, ngoại giao nói chung và ngoại giao văn hóa nói riêng để lan tỏa tinh thần cởi mở, chân thành, thân thiện, yêu hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, tình nghĩa, trong sáng, thủy chung với bạn bè, đối tác, trách nhiệm với công việc chung của thế giới của dân tộc Việt Nam. Cần nhận thức sâu sắc, công tác đối ngoại và ngoại giao văn hóa không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành Ngoại giao, ngành Văn hóa mà phải là nhiệm vụ của tất cả các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương, của tất cả các tổ chức và cá nhân trong nước, cơ quan đại diện và người Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua ngoại giao văn hóa để phổ biến và lan tỏa hình ảnh đất nước, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam; giúp các nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới hiểu biết, yêu mến, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ Việt Nam phát triển; ủng hộ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; tăng cường mở rộng đầu tư, kinh doanh, du lịch vào Việt Nam… Đồng thời, các hoạt động đối ngoại và ngoại giao văn hóa cũng giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta có hiểu biết nhiều hơn về các nền văn hóa trên thế giới, tiếp thu, chia sẻ tri thức và kinh nghiệm quốc tế, nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.
Năm là, tập trung đầu tư phát triển mạnh ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa
Theo Tổ chức UNESCO: “Công nghiệp văn hóa xuất hiện khi các hàng hóa và dịch vụ văn hóa được sản xuất và tái sản xuất, được lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại, tức là trên quy mô lớn” (12). Vì vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hóa đã trở thành một trong những ngành kinh tế - văn hóa mũi nhọn, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế, văn hóa và quảng bá sức mạnh mềm quốc gia.
Các sản phẩm công nghiệp văn hóa (quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa…) khi ra khỏi biên giới quốc gia sẽ không chỉ đơn thuần là những sản phẩm, hàng hóa văn hóa thông thường mà còn là biểu tượng, bản sắc, hình ảnh, thương hiệu quốc gia, thể hiện sức mạnh mềm của văn hóa quốc gia trong giao lưu và hội nhập quốc tế. Do đó, cần có chiến lược, kế hoạch phát triển có trọng điểm, trọng tâm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa. Đổi mới công tác quản lý nhà nước, hoàn thiện hành lang pháp lý cho ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa. Nhà nước cần hỗ trợ, đầu tư, tài trợ mạnh mẽ cho các sản phẩm công nghiệp văn hóa mang bản sắc dân tộc và xem đó như là loại hàng hóa xuất khẩu đặc biệt làm nên giá trị quốc gia trên trường quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hóa, mở rộng các hình thức hợp tác, đối tác công - tư trong đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa. Tạo điều kiện để các nhà văn hóa, các doanh nghiệp đẩy mạnh sáng tạo công nghiệp văn hóa Việt Nam; thể hiện sâu sắc, tinh tế tinh thần dân tộc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc để lan tỏa ra với thế giới; sớm khắc phục tình trạng “nhập siêu” các sản phẩm công nghiệp văn hóa nước ngoài. Tiếp thu, vận dụng có hiệu quả các kinh nghiệm quản trị và thành tựu mới của các ngành công nghiệp văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới để phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, gia tăng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay.
Sáu là, phát triển mạnh du lịch - ngành kinh tế mũi nhọn
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chính sách phát triển bền vững đất nước là: “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, phấn đấu đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn” (13). Phát triển du lịch cũng chính là cách thức, là con đường để phát huy sức mạnh mềm văn hóa mà nhiều quốc gia đã và đang lựa chọn hiệu quả. Du lịch, nhất là du lịch văn hóa góp phần rất quan trọng trong việc khai thác và phát huy giá trị văn hóa dân tộc cho tăng trưởng và phát triển bền vững; làm cho du khách quốc tế đến tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng, đầu tư, kinh doanh… hiểu và yêu mến hơn đất nước, văn hóa và con người Việt Nam. Cần đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển mạnh các loại hình và sản phẩm du lịch, nhất là du lịch văn hóa. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch để có thể sản xuất và chuyển tải được tối đa hàm lượng văn hóa dân tộc vào trong các loại hình và sản phẩm du lịch. Làm tốt hơn nữa công tác quảng bá du lịch, các chiến lược truyền thông du lịch phải hướng tới việc xây dựng thương hiệu, biểu trưng quốc gia với hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam - điểm đến tươi đẹp, thân thiện, hấp dẫn và an toàn.
Để phát triển du lịch bền vững, thúc đẩy giao lưu và hội nhập quốc tế, cần quan tâm bảo đảm an ninh du lịch, “bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau” (14); xây dựng hạ tầng du lịch văn minh, hiện đại, đồng bộ và tương xứng với hạ tầng kinh tế - xã hội; gắn kết chặt chẽ với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Có thể nhận thấy, sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam là một thành tố quan trọng cấu thành nên sức mạnh tổng hợp quốc gia và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Vì vậy, cần có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất với các giải pháp toàn diện, đồng bộ để lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong hợp tác, giao lưu, hội nhập quốc tế. Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là các ngành Văn hóa, Giáo dục, Đối ngoại cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, chân thực và sâu sắc, sinh động, thuyết phục về đất nước, văn hóa và con người Việt Nam trong truyền thống lịch sử, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong công cuộc Đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
____________________
1, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.45, 63.
2. Dẫn theo Báo Nhân Dân, ngày 4-4-1998.
3, 5, 7, 9, 11, 13, 14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.145-147, 214, 145, 25, 161-164, 145-146, 146.
4. Lê Khả Phiêu, Diễn văn kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Nhân Dân, ngày 3-2-2000.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.130.
10. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 9-9-1969.
12. Dẫn theo PGS, TS Vũ Đức Thanh, TS Hoàng Khắc Lịch, Công nghiệp văn hóa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2016.
PGS, TS NGUYỄN DUY BẮC
Nguồn: Tạp chí VHNT số 473, tháng 9-2021