Trong khuôn khổ Năm Du lịch quốc gia 2025, chiều 19-12, tại Nhà hát Duyệt Thị Đường, thành phố Huế, Bộ VHTTDL chủ trì, phối hợp với UBND TP Huế tổ chức “Hội nghị quốc tế về các ngành công nghiệp văn hóa – Nền tảng phát triển du lịch bền vững”. Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị.

Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng và các đại biểu tham dự Hội nghị
Cùng tham dự Hội nghị có: Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hồ An Phong; Phó Chủ tịch thường trực UBND TP Huế Nguyễn Thanh Bình; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Nguyễn Thị Thanh Lịch; Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Bùi Hoài Sơn; đại diện các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương; đại diện các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế; cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa và du lịch; các trung tâm văn hóa, trung tâm công nghiệp văn hóa, không gian sáng tạo; tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội, các chuyên gia.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch thường trực UBND TP Huế Nguyễn Thanh Bình nhấn mạnh: Huế không chỉ là một đô thị di sản mà còn là trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc của cả nước. Huế luôn xác định việc phát triển công nghiệp văn hóa (CNVH) dựa trên nền tảng di sản và du lịch bền vững là hướng đi tất yếu để tạo ra những giá trị mới, đồng thời tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế và hội nhập. Cố đô Huế sở hữu 8 di sản được UNESCO ghi danh, cùng hệ thống các thiết chế văn hóa, di tích phong phú. Địa phương còn có lợi thế về các loại hình nghệ thuật diễn xướng, các làng nghề truyền thống và các giá trị văn hóa phi vật thể như Áo dài, ẩm thực Huế - những chất liệu quan trọng để hình thành các sản phẩm CNVH độc đáo.

Phó Chủ tịch thường trực UBND TP Huế Nguyễn Thanh Bình phát biểu tại Hội nghị
Tuy nhiên, ông Nguyễn Thanh Bình cũng thẳng thắn chỉ ra những thách thức mà địa phương đang đối mặt. Dù đã có nhiều nỗ lực và đạt được một số thành tựu nhất định, nhưng việc biến các tiềm năng di sản thành một ngành kinh tế mũi nhọn vẫn còn gặp nhiều trở ngại về mặt thể chế, cơ chế chính sách cũng như thiếu hụt các mô hình phát triển hiệu quả.
Thông qua diễn đàn quốc tế này, lãnh đạo TP Huế bày tỏ mong muốn được lắng nghe các ý kiến tư vấn, định hướng từ Bộ VHTTDL, cũng như những kinh nghiệm thực tế từ các chuyên gia trong và ngoài nước để tháo gỡ các điểm nghẽn hiện tại.
Đồng bộ chiến lược và khung thể chế giữa công nghiệp văn hóa và du lịch
Báo cáo đề dẫn với chủ đề “Công nghiệp văn hóa – nền tảng phát triển du lịch bên vững trong bối cảnh mới”, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cho biết, trong những năm gần đây, du lịch thế giới chứng kiến những chuyển dịch mang tính cấu trúc, khi mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên dần nhường chỗ cho mô hình tạo lập giá trị thông qua văn hóa và sáng tạo. Theo UNWTO (2024), nhu cầu của du khách đã chuyển mạnh từ “chiêm ngưỡng” sang “trải nghiệm” và “đồng sáng tạo”, kéo theo sự thay đổi sâu sắc về cách thức các điểm đến xây dựng sản phẩm, tổ chức không gian và định vị thương hiệu. Các đô thị như Barcelona, Seoul hay Melbourne trở thành hình mẫu không phải vì sở hữu nhiều tài nguyên hơn, mà do biết tích hợp văn hóa – sáng tạo – công nghệ để hình thành những điểm đến giàu bản sắc và có khả năng cạnh tranh toàn cầu.
Tại Việt Nam, du lịch phục hồi mạnh mẽ và bước vào chu kỳ tăng trưởng mới với dấu mốc quan trọng: 11 tháng năm 2025, Việt Nam đón gần 19,2 triệu lượt khách quốc tế, vượt kỷ lục 18 triệu lượt năm 2019 – mức cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên, tăng trưởng về lượng chưa phản ánh đầy đủ năng lực cạnh tranh về chất. Cấu trúc sản phẩm du lịch vẫn dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên và di sản, những lĩnh vực vốn nhạy cảm trước biến đổi khí hậu, chịu áp lực bảo tồn và dễ bị trùng lặp trong cách khai thác giữa các địa phương. Khi thị hiếu du khách thay đổi nhanh chóng, mô hình này bộc lộ hạn chế về khả năng tạo khác biệt và giá trị gia tăng...
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 (Quyết định 2486/QĐ-TTg) cung cấp một nền tảng chính sách mang tính định hướng chiến lược. Lần đầu tiên, CNVH được xác định không chỉ là các ngành kinh tế quan trọng, mà còn là động lực nâng cấp chất lượng tăng trưởng của các ngành dịch vụ, trong đó du lịch là lĩnh vực hưởng lợi trực tiếp...

PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương phát biểu đề dẫn với chủ đề “Công nghiệp văn hóa – nền tảng phát triển du lịch bên vững trong bối cảnh mới”
PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương nhấn mạnh, công nghiệp văn hóa chính là động lực mới để du lịch Việt Nam tái định vị cả về mô hình phát triển, cấu trúc sản phẩm và hình ảnh thương hiệu điểm đến.
Trong bối cảnh nhu cầu du lịch toàn cầu chuyển mạnh từ tiêu dùng thụ động sang trải nghiệm mang tính cá nhân hóa và đồng kiến tạo, các ngành CNVH trở thành nền tảng quan trọng để nâng cấp giá trị thụ hưởng của du khách…
PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương cũng nhấn mạnh, CNVH mở rộng chuỗi giá trị và vận hành hệ sinh thái điểm đến qua bốn chủ thể: Chính quyền địa phương; Doanh nghiệp du lịch và doanh nghiệp sáng tạo; Cộng đồng địa phương và du khách.
Chia sẻ mô hình từ các nước có nền CNVH phát triển tại Hội nghị, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương cho biết, từ kinh nghiệm quốc tế có thể rút ra một số hàm ý quan trọng cho Việt Nam. Đó là, phát triển CNVH gắn với du lịch cần được coi là chiến lược dài hạn, không phải các dự án ngắn hạn hay phong trào; điểm đến sáng tạo phải được kiến tạo trên nền tảng bản sắc địa phương và sự tham gia thực chất của cộng đồng, tránh thương mại hóa cực đoan; vai trò kiến tạo của Nhà nước và năng lực đổi mới của doanh nghiệp sáng tạo là điều kiện quyết định để CNVH thực sự trở thành động lực nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch.
Trên cơ sở Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 và Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, việc coi CNVH là động lực tái định vị năng lực cạnh tranh du lịch đòi hỏi một cách tiếp cận giải pháp mang tính hệ thống, liên ngành và liên vùng, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương nhấn mạnh một số định hướng và giải pháp trọng tâm:
Cần đồng bộ chiến lược và khung thể chế giữa CNVH và du lịch. Trong đó, cần làm rõ “điểm đến sáng tạo” như một mô hình phát triển chung của cả hai chiến lược: CNVH và du lịch; hoàn thiện thể chế để gắn CNVH - du lịch - kinh tế đêm - chuyển đổi số vào cùng một khung chính sách; hoàn thiện cơ chế phân cấp, phối hợp giữa Trung ương và địa phương.
Bên cạnh đó, cần phải phát triển nguồn lực xây dựng hạ tầng, định hình mô hình điểm đến sáng tạo gắn với bản sắc và lợi thế vùng.
Đồng thời, hoàn thiện hệ thống dữ liệu, chuyển đổi số và truyền thông chiến lược để tăng cường năng lực cạnh tranh của điểm đến sáng tạo. Trong đó cần: xây dựng cơ sở dữ liệu tích hợp về văn hóa – du lịch – CNVH; thúc đẩy chuyển đổi số trong thiết kế trải nghiệm và quản trị điểm đến; phát triển chiến lược truyền thông quốc gia dựa trên giá trị sáng tạo; thiết lập mô hình quản trị điểm đến sáng tạo theo hướng liên ngành và đa tác nhân; phát triển bộ chỉ số đánh giá năng lực sáng tạo của điểm đến.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn phát biểu với chủ đề “Chiến lược 2486 và cơ hội bứt phá cho các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”
Chiến lược ra đời, mở ra một không gian phát triển mới về CNVH của Việt Nam
Phát biểu về chủ đề “Chiến lược 2486 và cơ hội bứt phá cho các ngành CNVH Việt Nam”, PGS, TS Bùi Hoài Sơn chia sẻ khi cách đây hơn 10 năm, ông cùng các cộng sự bắt đầu soạn thảo Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 theo Quyết định 1755 vào năm 2012.
Nhìn lại chặng đường triển khai Quyết định 1755, PGS, TS Bùi Hoài Sơn đánh giá đó là những năm tháng vừa làm, vừa thử nghiệm và điều chỉnh. Những thành quả bước đầu đã dần hiện rõ khi ngành Điện ảnh bắt đầu định hình được thị trường, các lễ hội văn hóa được tổ chức bài bản hơn, và các lĩnh vực như thiết kế, thời trang, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn cùng du lịch văn hóa đã dần tìm được chỗ đúng trong đời sống kinh tế - xã hội.
“Văn hóa dù chưa thật mạnh mẽ nhưng đã bắt đầu bước ra khỏi "vùng an toàn" để tiến vào không gian của thị trường, của sự sáng tạo và cạnh tranh. Đến nay, CNVH không còn là khái niệm xa lạ mà đã trở thành một phần trong tư duy phát triển quốc gia, hiện diện trong các chiến lược lớn về kinh tế, đô thị, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế” – PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.
Chiến lược 2486 ra đời không phải để thay thế mà để nâng tầm và mở ra một không gian phát triển mới về CNVH của Việt Nam. PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng Việt Nam đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển: kinh tế di sản, CNVH, hệ thống thể chế đang dần hoàn thiện theo hướng kiến tạo phát triển; không gian phát triển được tái cấu trúc với các đô thị sáng tạo và vùng động lực, không gian văn hóa mới. Đặc biệt, công nghệ số đang mở ra cánh cửa chưa từng có, cho phép các sản phẩm văn hóa Việt Nam tiếp cận hàng triệu người trên thế giới trong thời gian ngắn. Quan trọng hơn cả hiện nay, có một thế hệ trẻ đầy năng lượng, sáng tạo và khát vọng khẳng định bản thân bằng chính giá trị Việt Nam.
Theo GS, TS Bùi Hoài Sơn, chiến lược sẽ không đi vào cuộc sống, nếu không hành động kiên trì và thực chất. Cho nên, cần tiếp tục tháo gỡ các rào cản về thể chế, đầu tư, bản quyền và cơ chế đặt hàng và huy động nguồn lực xã hội. Cần phải đầu tư cho hạ tầng văn hóa và không gian sáng tạo tương đương như đầu tư cho các công trình hạ tầng thiết yếu cho tương lai. Đồng thời, cần phải đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, đội ngũ sáng tạo, không chỉ giỏi chuyên môn mà còn phải am hiểu thị trường, công nghệ. Quan trọng hơn cả là sự thay đổi trong tư duy quản lý, chuyển từ "quản lý hoạt động" sang "quản trị phát triển", từ "làm thay" sang "tạo điều kiện" để các chủ thể sáng tạo tự do phát huy năng lực…

Bà Urawadee Sriphiromya - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Thái Lan tại Việt Nam phát biểu tham luận
Văn hóa không chỉ là di sản cần bảo tồn mà còn là động lực tăng trưởng kinh tế bền vững
Tại Hội nghị, bà Urawadee Sriphiromya - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Thái Lan tại Việt Nam nhấn mạnh, văn hóa không chỉ là di sản cần bảo tồn mà còn là động lực tăng trưởng kinh tế bền vững. Bà chia sẻ về mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa Thái Lan và Việt Nam, với hơn 100.000 công dân Thái gốc Việt đang sinh sống tại Thái Lan đã tạo nên sợi dây giao lưu văn hóa bền chặt.
Bà Urawadee Sriphiromya cho biết người dân Thái Lan ngày càng yêu thích Việt Nam bởi sự an toàn, thoải mái và những trải nghiệm chân thực từ ẩm thực, âm nhạc đến thời trang. Đặc biệt, bà đánh giá cao cách Việt Nam quảng bá văn hóa thông qua các sản phẩm đặc trưng như cà phê hay các làng nghề thủ công tại Hà Nội.
Theo bà, tương lai của du lịch nằm ở sự cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường, nơi văn hóa đóng vai trò là cốt lõi để thu hút du khách quay trở lại nhiều lần hơn.
Ông Captain Rahul Bali, một nhà làm phim đến từ Ấn Độ và là CEO của Indian Innovation, đã mang đến một góc nhìn đầy cảm hứng về điện ảnh như một ngành CNVH thúc đẩy du lịch tại Hội nghị. Ông khẳng định điện ảnh chính là tấm hộ chiếu cho phép thế giới du lịch mà không cần di chuyển, là cầu nối tâm hồn giữa các quốc gia.
Dẫn chứng từ thành công của những bộ phim quay tại Thái Lan, New Zealand hay Croatia đã biến những địa danh này thành điểm đến mơ ước của hàng triệu người, ông chia sẻ về dự án phim "Love in Vietnam" mà ông vừa thực hiện tại Ninh Bình và Vịnh Hạ Long. Ngay cả trước khi phim ra mắt, khán giả Ấn Độ đã vô cùng tò mò và khao khát được trải nghiệm phong cảnh, con người và văn hóa Việt Nam.
Ông Rahul Bali nhấn mạnh, điện ảnh tạo ra tác động kinh tế to lớn, từ việc tạo ra hàng nghìn việc làm trực tiếp đến các dịch vụ phụ trợ như lưu trú, ẩm thực. Để phát triển bền vững, ông kiến nghị Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể như xây dựng "ban hỗ trợ điện ảnh" để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà làm phim quốc tế, đồng thời tăng cường các lễ hội giao lưu văn hóa để quảng bá hình ảnh quốc gia một cách chủ động và hiệu quả hơn.

Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng phát biểu kết luận Hội nghị
Hoàn thiện thể chế và chính sách để phát triển các ngành CNVH
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng cho biết, tại “Hội nghị quốc tế về các ngành công nghiệp văn hóa – Nền tảng phát triển du lịch bền vững”, các diễn giả, các nhà khoa học, những người trực tiếp làm công tác quản lý văn hóa đã trao đổi, phát biểu với nhiều ý kiến tâm huyết, nội dung phong phú, đề cập đến nhiều lĩnh vực. Trọng tâm là làm rõ mối quan hệ giữa công nghiệp văn hóa và du lịch, hướng đi nào cho du lịch để phát triển bền vững.
“Có thể nói, từng vấn đề đã được bàn luận, bao gồm cả về cơ sở khoa học và lý luận cũng như những kinh nghiệm thực tiễn đã trải qua, và đi đến khẳng định: du lịch muốn phát triển phải dựa trên nền tảng văn hóa” – Bộ trưởng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng, CNVH đã được hình thành từ khá sớm và được nhiều quốc gia ưu tiên phát triển, nhất là các quốc gia phát triển thì luôn luôn coi CNVH là chìa khóa để phát triển kinh tế một cách bền vững và thành công. Trong xu thế chung đó, Việt Nam cũng đã nhận rõ vai trò của CNVH. Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã sớm ban hành Quyết định số 1755 về Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
“Việc xác lập Chiến lược này đã giúp cho các địa phương, các bộ ngành có một cách nhìn tổng thể khi dựa vào sức mạnh mềm của văn hóa, khi khẳng định văn hóa là sức mạnh nội sinh, là động lực của sự phát triển bền vững. Từ đó, trải qua một thời gian thực hiện, đã nhận diện càng ngày càng rõ hơn, nhằm định hình các ngành CNVH trên nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” – Bộ trưởng nêu rõ.
Việt Nam đã có 12 ngành công nghiệp văn hóa hiện hữu, mỗi ngành có sự phát triển khác nhau, nhưng ngày càng thấy được những đóng góp tích cực của các ngành. Chính vì vậy mà khép lại thời gian thực hiện chiến lược 1755, đóng góp của ngành CNVH vào GDP của cả nước tại thời điểm năm 2025 chiếm tỷ trọng 4% GDP. Từ đó để phát triển và thúc đẩy CNVH trở thành một ngành sáng tạo, hỗ trợ cho sự phát triển một cách bền vững, trong đó có du lịch.
Bộ trưởng cho biết, Bộ VHTTDL được Chính phủ giao nhiệm vụ tổng kết Chiến lược 1755 và tham mưu để trình phê duyệt một chiến lược mới. Tại Quyết định số 2486, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển CNVH của Việt Nam giai đoạn 2030 tầm nhìn đến 2045, đặt ra hai mốc thời gian 100 năm hết sức có ý nghĩa. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Hai cột mốc 100 năm này như là lời hiệu triệu bằng các chỉ tiêu, bằng các hướng đi được hoạch định trong chiến lược” – Bộ trưởng nêu rõ.
Bộ trưởng nhấn mạnh, chúng ta có quyền tin tưởng, với một chiến lược đúng đắn được xác định trên cơ sở lựa chọn những thế mạnh, những ngành CNVH có lợi thế, tiềm năng, dư địa, Việt Nam sẽ nỗ lực để về đích cùng với các quốc gia phát triển khác. Đó là một cam kết chính trị mà toàn ngành Văn hóa phải tiên phong để thực hiện nhiệm vụ này.
“Chúng ta đều thấy khi văn hóa được kết nối, gắn chặt với kinh tế, kinh tế không tách rời với văn hóa, thì nền kinh tế đó sẽ là một nền kinh tế bền vững, đó là một nền kinh tế xanh” – Bộ trưởng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng, khi văn hóa được kết nối với xã hội thì sẽ hình thành nên nhân cách của một con người toàn diện; khi văn hóa được kết nối với khoa học công nghệ thì sẽ tạo ra một không gian phát triển hết sức rộng lớn để thúc đẩy văn hóa phát triển; khi văn hóa được gắn kết với du lịch thì du lịch sẽ được chắp cánh, bay cao và bay xa. Đó là một sự thật, một sự chiêm nghiệm đúng đắn từ thực tiễn không chỉ ở Việt Nam mà các quốc gia khác đều đã đạt được.
Tuy nhiên, văn hóa là một lĩnh vực rộng, gắn bó mật thiết với con người, vì vậy cần được định hướng trên những trụ cột căn bản, trong đó lấy con người làm trung tâm, coi con người là chủ thể sáng tạo của văn hóa. Chỉ trên nền tảng đó, cả văn hóa và du lịch mới có thể phát triển hài hòa, bền vững. Mối quan hệ biện chứng giữa hai lĩnh vực này luôn đan xen, gắn kết và đồng hành cùng nhau trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.

Toàn cảnh Hội nghị
Ngành Du lịch Việt Nam đã cán đích con số 20 triệu lượt khách quốc tế, 130 triệu lượt khách nội địa đi để yêu thêm đất nước Việt Nam, đi để trải nghiệm. Du lịch Việt Nam đã có một bước tiến dài từ chỗ đón du khách đến để xem, để được trải nghiệm, được chạm vào cảm xúc, và đến để được quay lại.
“Chỉ khi du khách chạm được vào cảm xúc, có sự yêu mến thì mới quay lại tìm hiểu và khám phá. Đó là quy luật tất yếu của cung bậc tình cảm mà bất cứ con người nào đều sẽ trải qua. Vì vậy, để tạo nên hành trình ấy, không có con đường nào hiệu quả và bền vững hơn con đường văn hóa” – Bộ trưởng bày tỏ.
Theo Bộ trưởng, câu chuyện phát triển du lịch phải được đặt trên nền tảng văn hóa, quan điểm này đã được nhiều đại biểu nhấn mạnh tại Hội nghị. Việc Ban Tổ chức lựa chọn Nhà hát Duyệt Thị Đường làm địa điểm tổ chức cũng không phải là sự ngẫu nhiên. Đây là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam còn tồn tại đến nay, nằm trong hệ thống các hạng mục di sản của Cố đô Huế được bảo tồn và lưu giữ. Chính tại không gian này, những người làm công tác tổ chức đã gửi gắm thêm một thông điệp: hãy bắt đầu từ văn hóa, từ di tích và di sản; giữ gìn di sản, đồng thời “thổi hồn” cho di sản bằng sự sáng tạo.
Nhìn ra thực tiễn, có thể thấy quan họ Bắc Ninh – một di sản được UNESCO ghi danh – khi được các nghệ sĩ làm mới bằng tư duy sáng tạo, đã thu hút mạnh mẽ, đưa hàng triệu lượt du khách đến với Bắc Ninh, đến với vùng đất Kinh Bắc thông qua một loại hình nghệ thuật truyền thống được tái sinh trong đời sống đương đại.
Bộ trưởng nhấn mạnh, giữ gìn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hóa là con đường mà ngành Văn hóa đã và đang kiên trì theo đuổi, đặc biệt trong 5 năm trở lại đây. Lấy một ví dụ khác, Bộ trưởng cho biết, Tràng An (Ninh Bình), sau khi được UNESCO ghi danh, địa phương đã biết cách kể câu chuyện du lịch bằng văn hóa và di sản. Những câu chuyện ấy gắn với bảo tồn hệ sinh thái bền vững, hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nâng cao ý thức gìn giữ cảnh quan, bồi đắp vẻ đẹp của làng quê truyền thống. Nhờ đó, lượng khách đến Ninh Bình đã tăng trưởng vượt trội so với nhiều địa phương khác.
Thực tiễn sinh động ấy đã khẳng định: du lịch muốn phát triển bền vững phải bắt đầu từ văn hóa. Vì thế, du khách quốc tế khi đến Việt Nam không chỉ tham quan, mà còn được trải nghiệm văn hóa, chạm đến cảm xúc và thêm yêu mến đất nước Việt Nam.
“Điều đó cũng tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại của Đảng ta, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả quốc gia bằng chiều sâu văn hóa, bằng một đất nước hiền hòa mến khách, yêu chuộng hòa bình, khát vọng về tự do, mong muốn xây dựng đất nước cường thịnh để sánh vai với bạn bè quốc tế như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Vì vậy đến lúc phải hành động quyết liệt hơn, làm tốt hơn để phát triển CNVH Việt Nam” – Bộ trưởng nhấn mạnh.
Bộ trưởng cho rằng, để phát triển CNVH cần nhiều giải pháp, nhưng trong đó phải dựa trên ba trụ cột chính, hay nói cách khác là ba yếu tố cốt lõi, đó là nhà nước, nhà sáng tạo, và doanh nghiệp. Chỉ khi ba nhà này hoạt động với nhau trên một vectơ cùng chiều thì nó mới tạo ra được những sản phẩm văn hóa, mới thúc đẩy kinh tế sáng tạo.
Bộ trưởng cho biết, trong phạm vi quản lý nhà nước, Bộ VHTTDL sẽ tiếp tục xây dựng các kế hoạch cụ thể, lộ trình trong từng năm để thúc đẩy triển khai chiến lược, bảo đảm để chiến lược không chỉ dừng lại ở trong văn bản mà phải được hiện thực hóa trong cuộc sống.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và chính sách là nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành đều phải tập trung triển khai một cách nghiêm túc và đồng bộ.
Bộ trưởng cũng cho biết, trong thời gian tới, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận và tiến tới bàn nhằm ban hành Luật Công nghiệp văn hóa, Luật Nghệ thuật và xem xét sửa đổi Luật Du lịch . Khi ba đạo luật này được hoàn thiện và định hình, cơ sở pháp lý cho phát triển văn hóa và du lịch sẽ vững chắc hơn.
AN NGỌC
.png)



.jpg)

.jpg)
