VAI TRÒ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG BẢO TỒN GIÁ TRỊ QUAN HỌ LÀNG VÂN KHÁM

Quan họ là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến ở vùng Kinh Bắc xưa, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Làng Vân Khám thuộc xã Hiên Vân, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nằm ở phía đông cách trung tâm huyện khoảng 4km, hiện vẫn còn lưu giữ những không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như: đồi Khám, đình Vân Khám, chùa Khám. Trong sự phát triển nhanh chóng của xã hội đương đại, các loại hình dân ca cổ truyền nói chung, dân ca quan họ ở làng Vân Khám nói riêng cũng chịu nhiều áp lực. Bảo tồn di sản văn hóa quan họ không gì tốt hơn là bắt đầu từ chính những người đã sản sinh ra nó - đó chính là người dân, cộng đồng ở làng Vân Khám.

1. Đôi nét về quan họ Bắc Ninh

Dân ca quan họ là nghệ thuật dân gian truyền thống của vùng Kinh Bắc xưa, loại hình nghệ thuật phong phú, độc đáo về thi ca, âm nhạc. Hát quan họ là tiếng hát giao duyên, đối đáp của nam nữ bằng lời hay, ý đẹp, với phong cách giao tiếp lịch sự, những lề lối, tập quán ứng xử tinh tế. Hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO đăng ký vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại do Viện Văn hóa Nghệ thuật soạn thảo cho rằng loại hình hát đối đáp nam nữ này vốn tồn tại ở 49 làng quan họ gốc, bây giờ vẫn đang hiện diện ở hơn 300 làng thuộc tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.

Giá trị truyền thống của văn hóa quan họ là phương tiện phản ánh sâu sắc tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ, niềm khát khao vươn đến cái đẹp của con người nơi đây từ nhiều đời nay. Giá trị di sản văn hóa quan họ được thể hiện trên hai khía cạnh cơ bản, đó là âm nhạc và trang phục. Nét đặc trưng của âm nhạc quan họ là hát đối đáp giữa một bên là liền anh và một bên là liền chị trong không gian văn hóa quan họ. Âm nhạc quan họ là lối hát đòi hỏi luyện tập công phu, có tính tập thể với những lề lối quy định chặt chẽ, được thực hiện nghiêm ngặt từ tổ chức đến diễn xướng. Trang phục quan họ không chỉ thể hiện tính thẩm mỹ mà còn bao hàm cả chiều sâu văn hóa. Trang phục liền chị thường gọi là: “mớ ba mớ bảy”, có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau, gọi là: mớ ba hoặc bảy áo dài lồng vào nhau gọi là: mớ bảy. Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu. Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng có lá sen, viền tà, gấu to, dài quá gối. Bên cạnh đó, những yếu tố hỗ trợ như: lời ca, dáng điệu, thái độ, ứng xử… Đó là sự tổng hòa quan hệ giữa các yếu tố, những đặc trưng trong văn hóa vùng miền với nét độc đáo riêng trong âm nhạc, vừa tạo nên sự thống nhất, lại vừa tạo ra sắc thái độc đáo riêng không có trong các loại hình âm nhạc khác.

2. Yếu tố cá nhân trong việc bảo tồn giá trị truyền thống quan họ

Quan họ Bắc Ninh là một loại hình văn hóa tổng hợp, vừa chứa đựng trong đó nhiều khía cạnh liên quan đến nghệ thuật, từ âm nhạc, lời ca đến diễn xướng, gắn bó sâu sắc với thiên nhiên, con người, văn hóa, văn minh làng xã, vừa phản ánh nhiều mặt của hoạt động đời sống cộng đồng nông thôn vùng Kinh Bắc xưa. Quan họ Bắc Ninh là tấm gương phản chiếu hiện thực khách quan đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ với lối sống, phong tục tập quán đặc trưng. Dân ca quan họ Bắc Ninh là kết tinh về quan niệm tình người, tình yêu, giá trị đạo đức, lối ứng xử, là một nét đẹp trong văn hóa dân gian của một vùng đất giàu truyền thống.

Chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra xã hội học tại xã Hiên Vân với số mẫu khảo sát là 405 người dân sống trên địa bàn xã Hiên Vân. Trong đó, chúng tôi thực hiện phỏng vấn sâu 10 người (gồm 7 người dân và 2 nghệ nhân).

Kết quả nghiên cứu cho thấy, phần lớn những người tham gia khảo sát đều biết đến các giá trị truyền thống cơ bản của quan họ Bắc Ninh. Với người dân ở đây, các giá trị truyền thống của quan họ Bắc Ninh được nhận định là: những làn điệu quan họ (100%), cảnh quan môi trường sinh hoạt văn hóa (75,0%) gắn liền với quan họ như: làng xóm, đường xá, ruộng đồng, cây đa bến nước… những công trình tín ngưỡng tôn giáo ở địa phương hiện nay (85%), đồ dùng cho sinh hoạt quan họ (70%) (giường, bàn ghế, ấm chén, cối trầu...) và trang phục truyền thống (89%) sử dụng khi hát quan họ. Giá trị truyền thống của quan họ Bắc Ninh không chỉ tái hiện nét tài hoa, quan điểm thẩm mỹ và khả năng sáng tạo của cư dân vùng nông thôn mà còn thể hiện kinh nghiệm sống, quan niệm về nhân cách, đạo đức, giá trị của con người trong cộng đồng. Chất trí tuệ, tình yêu, tình người trong quan họ là nguồn nhựa sống, chất men say của văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống, thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, yêu người, yêu quê hương đất nước, làm nên nhân cách con người vùng Kinh Bắc.     

Bảo tồn di sản văn hóa quan họ không gì tốt hơn là bắt đầu từ chính những người đã sản sinh ra nó - đó chính là người dân, cộng đồng. Cộng đồng là người sáng tạo, trao truyền, kế thừa mọi sáng tạo văn hóa phi vật thể. Do đó, hoạt động bảo tồn nhất thiết phải có sự tham gia trực tiếp của người dân gắn với lợi ích của họ. Cộng đồng được nhìn nhận là chủ thể văn hóa, đóng vai trò quan trọng. Người dân với vai trò là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, họ cũng đủ năng lực đánh giá các giá trị của di sản để quyết định mục đích, hình thức bảo tồn và thực hiện các biện pháp bảo tồn.

Trong cộng đồng thường xuất hiện hai luồng ý kiến về bảo tồn quan họ. Phần lớn những người cao tuổi, lão nghệ nhân có xu hướng bảo tồn quan họ truyền thống vì họ đã quen thuộc với hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật này. Việc đưa âm nhạc mới vào khiến họ khó khăn thích ứng, thể hiện khi hát. Những người trẻ tuổi không thích hát quan họ kiểu ê a, chậm chạp, đặc biệt nếu không có nhạc thì rất khó hát. Do đó, họ muốn bảo tồn quan họ kiểu mới. Quan họ lề lối là cái gốc của quan họ, nên nếu chỉ bảo tồn quan họ mới sẽ mất cái gốc. Vì vậy, phải bảo tồn quan họ gốc thì mới có quan họ mới. Lý thuyết biến đổi và tính liên tục của văn hóa đã cho thấy văn hóa luôn biến đổi, không có cái gì tồn tại mãi mãi mà không thay đổi. Quan họ là một phạm trù của văn hóa, vì thế, văn hóa thay đổi thì quan họ cũng có nhiều thay đổi (các nội dung mới được đưa vào không làm biến dạng sai lệch quan họ gốc). Nội dung mới của quan họ hiện nay phần lớn là yếu tố âm nhạc, kỹ thuật thanh nhạc, phổ nhạc cho những bài hát quan họ cổ, giới thiệu rộng rãi đến nhiều nhóm công chúng thông qua những hình thức đa dạng. Những người thưởng thức quan họ cũng có sự thay đổi về thị hiếu âm nhạc và nghệ thuật. Phần lớn họ không còn thích những làn điệu cổ quá chậm rãi. Như vậy, bảo tồn trên cơ sở kết hợp cả hai giữa bảo tồn quan họ cổ và xem xét đổi mới phát triển quan họ là xu hướng phù hợp với sự phát triển, biến đổi của xã hội ngày nay.

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đã làm thay đổi không gian cổ truyền của làng quê. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống dần dần bị thay thế bởi thói quen sinh hoạt văn hóa mới với sự đa dạng của các loại hình giải trí. Sinh hoạt quan họ thường được xem là công việc của những người cao tuổi. Vì vậy, trao quyền cho cộng đồng trong giữ gìn di sản văn hóa quan họ là hướng đi đúng, nhưng cần có thêm sự giám sát, hỗ trợ về tài chính, hướng dẫn chuyên môn thì việc bảo tồn di sản văn hóa quan họ mới có thể bền vững. Quan hệ xã hội và tính cố kết cộng đồng có thể nảy sinh từ những hoạt động truyền thống của quá trình biểu diễn quan họ Bắc Ninh. Đó là thành tố văn hóa cộng đồng góp phần làm cho những giá trị truyền thống vừa mang tính thực tiễn, vừa có tính tâm linh, tín ngưỡng.

Quan họ là một nét văn hóa mang bản sắc riêng, có sức sống trong lòng người dân vùng Kinh Bắc. Quan họ gắn liền với cảnh quan sông nước, bao quanh các núi đồi, chùa chiền, thôn làng Kinh Bắc. Mặc dù quan họ gắn với nếp sống sinh hoạt đời thường nhưng đã kết tinh tâm hồn, tình cảm và những ước mơ khát vọng cao đẹp về nhiều mặt của người Kinh Bắc. Ngôn ngữ quan họ giàu chất thi vị, tính hình tượng và biểu cảm. Lời ca làn điệu mang những nét tinh hoa, bác học, làm nên sự trong trẻo, tinh tế, mềm mại, đa tình và quyến rũ của dân ca quan họ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy những đặc điểm nhân khẩu xã hội của cá nhân phần nào có tác động đến hoạt động bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của quan họ Bắc Ninh. Cụ thể như sau:

 
 

Đặc điểm nhân khẩu xã hội

Tỷ lệ trả lời mức độ thực hiện bảo tồn  (%)

Nhiều

Bình thường

Ít

Giới tính

Nam

70,8

23,6

5,7

Nữ

67,3

28,6

4,1

Trình độ học vấn  ***

Tiểu học và dưới tiểu học

47,4

26,3

26,3

THCS

42,6

51,1

6,4

THPT và trên THPT

70,3

26,6

3,1

Độ tuổi ***

Dưới 30 tuổi

93,7

6,3

0,0

Từ 30 - 50 tuổi

81,7

17,1

1,2

Trên 50 tuổi

25,4

59,3

15,3

Nghề nghiệp ***

Nông nghiệp

46,7

40,7

12,3

Phi nông nghiệp

72,8

27,3

0

Mức sống **

Khá giả

62,8

35,7

1,4

Trung bình

73,3

21,9

4,8

Khó khăn

6,6

16,7

16,7


Bảng: Mối liên hệ giữa đặc điểm nhân khẩu xã hội của người trả lời với thực hiện bảo tồn giá trị văn hóa quan họ

Mức ý nghĩa thống kê: * P <> **P <> ***P <>

Qua bảng trên, chúng tôi chưa thấy mối liên hệ giữa giới tính cá nhân và mức độ thực hiện hoạt động bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa quan họ ((p = 0,837 > 0,05), nhưng việc thực hiện bảo tồn có mối liên hệ với trình độ học vấn (p = 0,000), nghề nghiệp (p = 0,000), mức sống (p = 0,004) và độ tuổi (p = 0,000).

Các dữ liệu trên cho thấy: việc thực hiện hoạt động bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa quan họ tại địa bàn khảo sát tăng dần theo trình độ học vấn của các cá nhân. Các hộ gia đình phi nông nghiệp ở địa bàn khảo sát, phần lớn là các hộ cán bộ, viên chức nhà nước (chiếm 88,9%), là nhóm xã hội có trình độ học vấn cao hơn so với nhóm gia đình làm nông nghiệp. Vì vậy, sự nhận thức của nhóm này tích cực hơn trong việc bảo tồn giá trị văn hóa quan họ. Những dữ liệu này phù hợp với những luận điểm của Durkheim khi phân tích về văn hóa. Durkheim cho rằng, giáo dục là một tiêu chuẩn quan trọng để truyền lại cho các cá thể những tiêu chuẩn văn hóa, nhằm đảm bảo sự đoàn kết ở những mức độ nhất định.

Nhóm người ở độ tuổi trẻ (dưới 30 tuổi) là nhóm đã tham gia thực hiện trao bảo tồn di sản văn hóa quan họ nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, nhóm tuổi dưới 50 có tỷ lệ về mức độ bảo tồn các giá trị quan họ nhiều hơn so với nhóm tuổi trên 50. Tỷ lệ này ở nhóm tuổi dưới 30 là 93,7%; nhóm tuổi từ    30-50 là 81,7% và nhóm tuổi dưới 25,4%. Đây có thể xem là một tín hiệu đáng mừng khi những giá trị văn hóa truyền thống được các nhóm xã hội thanh niên đón nhận. Điều này cũng là một lợi thế đối với cộng đồng khi có những cá nhân thể hiện tâm thế rõ ràng trong việc cùng chung tay với xã hội thực hiện bảo vệ di sản văn hóa quan họ.

Những người làm nông nghiệp có mức độ thực hiện hoạt động bảo tồn nhiều hơn so với những người có nghề nghiệp phi nông (46,7% so với 72%). Một số nghiên cứu về văn hóa cho thấy, sự đa dạng hóa nghề nghiệp cũng như nhu cầu hiện đại hóa của con người có thể là một yếu tố làm lu mờ bản sắc văn hóa truyền thống. Một số nơi, những thành viên tham gia nhiệt tình, dành nhiều thời gian cho các hoạt động quan họ phần lớn là những người có điều kiện kinh tế gia đình khá giả, phi nông nghiệp. Số còn lại khi tham gia sinh hoạt quan họ vẫn phải hàng ngày lo đi làm công hoặc làm nông nghiệp dẫn đến hạn chế thời gian. Sự gắn bó với mảnh đất nông thôn, với nghề nông là một yếu tố khiến người dân ở đây thêm yêu thích làn điệu quan họ, gắn kết với quê hương, có ý thức bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống.

Mức độ thực hiện bảo tồn tăng dần theo những cá nhân có mức sống khá giả. Nói cách khác, trong cá nhân có mức sống khá, tỷ lệ mức độ thực hiện bảo tồn nhiều hơn so với những cá nhân có mức sống thấp hơn (mức sống khá có tỷ lệ là 62,8 % thì cá nhân có mức sống khó khăn chỉ là 6,6%). Nếu ngày trước, những người chơi quan họ phải là thành phần ưu tú, tinh hoa trong cộng đồng làng xã, thì giờ đây người tham gia quan họ đã được mở rộng thêm rất nhiều. Do sự phát triển kinh tế nên việc tổ chức lễ hội hát quan họ không còn được giữ nguyên như trước đây, mà thường đổi mới thêm/ bớt một số nội dung, cũng như cách tân một số không gian biểu diễn. Đây chính là sự sáng tạo lại giá trị truyền thống.

Tuy nhiên, trên thực tế, một số cá nhân đã và đang tham gia sinh hoạt quan họ Bắc Ninh, nhưng mang tính thương mại hóa, phá vỡ tính truyền thống và làm giảm giá trị nghệ thuật thuần khiết của di sản văn hóa. Nhiều nghiên cứu trước đây đã cho thấy văn hóa quan họ dành cho tầng lớp lao động bình dân, phù hợp với những con người sống trong môi trường nông nghiệp thuần túy, đậm đặc tính thời vụ. Tuy nhiên, dưới góc độ âm nhạc - dân tộc học thì quan họ đã đạt tới một trình độ phát triển cao hơn hẳn với những hình thức diễn xướng dân gian khác về thang âm, lề lối và luật tục... Chính vì vậy, trong sự biến chuyển của thời đại, sự tiếp biến văn hóa vừa tạo nên sự thích ứng nhưng đồng thời cũng có sự sai lệch của những biểu hiện văn hóa quan họ. Những hình thức biểu diễn quan họ mang tính vụ lợi, kinh tế, đã phá vỡ tính truyền thống cần bảo tồn của văn hóa quan họ.

3. Kết luận

Văn hóa quan họ trong truyền thống chỉ dành cho một nhóm người nhất định trong làng xã. Nhưng ngày nay, nhóm xã hội tham gia các hoạt động liên quan đến quan họ mang tính phổ biến và đại trà hơn. Hoạt động bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống quan họ Bắc Ninh phần nào chịu tác động của những yếu tố thuộc về cá nhân như đặc điểm giới tính, trình độ học vấn, mức sống, nghề nghiệp... Kết quả khảo sát phản ánh: những người có trình độ học vấn cao là nhóm tham gia thực hiện hoạt động bảo tồn nhiều hơn. Những người trẻ tuổi là nhóm tham gia hoạt động bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống nhiều hơn nhóm tuổi khác. Những người làm nông nghiệp cũng là nhóm có mức độ thực hiện hoạt động bảo tồn nhiều hơn nhóm phi nông nghiệp. Những cá nhân có mức sống khá giả thường là nhóm thực hiện hoạt động bảo tồn nhiều hơn nhóm có mức sống thấp hơn.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 399, tháng 9 - 2017

Tác giả : CHU THỊ HUYỀN YẾN

;