Thị trường các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Nghệ thuật biểu diễn là một trong những ngành công nghiệp văn hóa đã được Nhà nước xác định tập trung phát triển - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

1. Khái niệm và cách tiếp cận

Thuật ngữ công nghiệp văn hóa (culture industry - gọi tắt là CNVH) lần đầu tiên xuất hiện năm 1944, trong cuốn Dialectic of Enlightenment của hai nhà nghiên cứu người Đức là: Adorno và Horkneimer. Có rất nhiều cách quan niệm khác nhau, song việc ghép khái niệm công nghiệp với văn hóa là xu hướng bộc lộ sức mạnh tiềm ẩn của văn hóa về phương diện kinh tế mà trước đây chúng ta ít chú ý tới (1). O’Connor định nghĩa rằng, CNVH là những hoạt động giao thương các hàng hóa mang tính biểu trưng, mà giá trị kinh tế của những hàng hóa này phát sinh từ chính giá trị văn hóa của chúng (2). Năm 1982, UNESCO xác định: “CNVH xuất hiện khi các hàng hóa và dịch vụ văn hóa được sản xuất và tái sản xuất, được lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại, tức là trên quy mô lớn, phù hợp với chiến lược kinh tế hơn là phát triển văn hóa” (3). Với cách tiếp cận này, CNVH gồm các ngành sản xuất và phân phối một cách thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa văn hóa, xã hội (4).

Thị trường văn hóa là khái niệm gắn liền với sự phát triển của các ngành CNVH trong sự chi phối của quy luật thị trường. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường làm cho hoạt động sáng tạo văn hóa của các ngành CNVH dần trở thành hoạt động sản xuất văn hóa. Thực tế cho thấy, các sản phẩm CNVH muốn trở thành hàng hóa được lưu thông rộng rãi trên thị trường thì tùy vào đặc trưng, tính chất cần sản xuất hàng loạt và cần có các phương thức quảng bá giới thiệu tới công chúng. Vì vậy, các sản phẩm và dịch vụ CNVH dần trở thành hàng hóa và chịu sự chi phối của người tiêu dùng. Do đó, kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa ra đời và thị trường văn hóa hình thành là điều tất yếu. Về cơ bản, thị trường văn hóa từ góc nhìn các ngành CNVH được nhìn nhận như là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán. Hàng hóa của thị trường này chính là các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Thị trường văn hóa cũng như thị trường, đều chịu sự chi phối của quy luật kinh tế thị trường là quan hệ cung - cầu, quan hệ giá cả và cạnh tranh. Tuy nhiên, thị trường văn hóa có tính chất đặc thù hơn các thị trường khác. “Các sản phẩm và dịch vụ văn hóa là loại hàng hóa đặc biệt, khi sản xuất lưu thông chúng không thể tính toán, đo lường giá trị, hạch toán lỗ lãi. Giá trị sử dụng của hàng hóa văn hóa thường lớn hơn giá trị nhiều lần và chúng có sức lan tỏa trong không gian, theo thời gian. Khi tiêu dùng, thụ hưởng hàng hóa văn hóa đòi hỏi người thưởng thức phải có sự trải nghiệm sống nhất định… Có những sản phẩm và dịch vụ văn hóa được định giá cao trên thị trường và cùng với thời gian, giá trị này có thể còn tăng lên nhiều lần” (5). Đối với một loại sản phẩm văn hóa cụ thể, không phải bất cứ đối tượng nào, ở trình độ nào cũng có thể tiêu dùng sử dụng được. Mặt khác, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa là sản phẩm thuộc về tư tưởng, tinh thần nên chịu sự điều tiết của định hướng văn hóa tiêu dùng quốc gia. Vì vậy, nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn gắn liền với trình độ nhận thức, trình độ dân trí và điều kiện địa lý, chính trị của từng địa phương.

 Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại (6). Theo C.Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Song, thực tế cho thấy, kinh tế thị trường không phát triển theo một mô hình duy nhất mà được thực hiện dưới nhiều mô hình khác nhau như thị trường tự do, thị trường - xã hội, kinh tế thị trường XHCN. Trong đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thuộc mô hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN). Mô hình kinh tế thị trường này đang được thực thi ở hai nước (Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN và Trung Quốc - kinh tế thị trường XHCN). Với hơn 1/4 thế kỷ thử nghiệm, kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có khả năng phát triển. Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực, vốn phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Sự xuất hiện của mô hình này khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường với tư cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.

Đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường được Đảng ta xây dựng và phát triển là: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” (7). Đây là mô hình kinh tế thị trường chưa hề có trong tiền lệ. Trải qua quá trình đổi mới, kể từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, tư duy, nhận thức về mô hình kinh tế này của Đảng ta ngày càng sáng rõ, hoàn thiện và phát triển.

2. Nhận diện thị trường các ngành CNVH Việt Nam

Trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đang ngày càng dành mối quan tâm nhiều hơn đối với vấn đề phát triển CNVH trong điều kiện kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế. Đây cũng chính là căn cứ quan trọng để Đại hội XII, và Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa chính trị, văn hóa kinh tế, phát triển CNVH, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa. Trong quá trình đổi mới thể chế, việc hoàn thiện hệ thống thể chế văn hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực CNVH diễn ra muộn hơn so với các lĩnh vực khác. Do vậy, trước những áp lực thích ứng với các thông lệ quốc tế, vấn đề quan trọng đặt ra đối với phát triển CNVH Việt Nam là phải có các các tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ phát triển của thị trường CNVH phù hợp với nước ta. Các tiêu chí này phải thống nhất được các yêu cầu bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa với thông lệ được thừa nhận phổ quát của nền kinh tế thị trường thế giới (8). Quá trình rà soát hệ thống chiến lược, chính sách của Việt Nam lĩnh vực CNVH đã bước đầu cho thấy, chúng ta đã đạt được những thành công trong việc phát triển thị trường, đặc biệt là ở các ngành CNVH theo hướng thích ứng với yêu cầu hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là trong giai đoạn thế giới đang đối diện với những thách thức của đại dịch. Nhìn chung, trước những yêu cầu mới của thời đại và của quy luật phát triển thị trường, thị trường văn hóa Việt Nam đang phát triển ở cả hai mảng: “offline” và “online” với những hoạt động đa dạng của “người bán” - “người mua” diễn ra trong các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành CNVH.

Thành công

Hệ thống văn bản chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đã tạo khung thể chế thúc đẩy thị trường văn hóa phát triển theo hướng chủ động hội nhập quốc tế

Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998), Đảng ta đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản trong đó nhấn mạnh: “Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế” (9). Tiếp đến, tại Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004) và Nghị quyết số 23-NQTW (tháng 6-2008) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã nhận định: “các phương tiện, phương thức sản xuất, trình diễn, sử dụng, truyền bá sản phẩm văn học, nghệ thuật phát triển khá mạnh đã đưa được nhiều tác phẩm đến với công chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân. Đã hình thành một thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật ở trong nước…” (10). Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã một lần nữa khẳng định sự tồn tại của thị trường hàng hóa và dịch vụ văn hóa. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33, trong đó, nêu rõ mục tiêu xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển CNVH và từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa. Đây là một chủ trương đổi mới của Việt Nam về văn hóa, có định hướng tác động trực tiếp đến việc hình thành một thị trường văn hóa với các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững mọi mặt của đất nước.

Trên tinh thần đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo đó, mục tiêu chủ yếu đến năm 2020, phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Đến năm 2030, phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm. Chiến lược đề ra mục tiêu chung phát triển các ngành CNVH Việt Nam bao gồm: quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Sau một thời gian triển khai chiến lược, hệ thống văn bản chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho thấy trong lĩnh vực văn hóa nói chung và CNVH nói riêng đã có sự thay đổi cơ bản: thừa nhận có thị trường văn hóa phẩm và công nhận sản phẩm văn hóa như là hàng hóa được lưu thông trên thị trường; tạo điều kiện cho thị trường văn hóa phẩm phát triển bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế; khuyến khích ngành CNVH phát triển thông qua một số chính sách cụ thể. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn về phát triển kinh tế và văn hóa, trong thời gian vừa qua, nhất là sau khi có chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa, các thành phần kinh tế khác nhau đã tham gia khá mạnh mẽ vào phát triển các lĩnh vực khác nhau trong lĩnh vực CNVH. Thị trường văn hóa phẩm xuất hiện hàng loạt các sản phẩm văn hóa đáp ứng yêu cầu văn hóa, thẩm mỹ, nghệ thuật của công chúng. Các kênh truyền thông truyền tải các giá trị văn hóa, nghệ thuật đến với công chúng cũng đa dạng và sinh động, đặc biệt là thông qua truyền hình, mạng internet.

Thị trường văn hóa Việt Nam đã từng bước tạo sức thu hút nhất định với người tiêu dùng, các sản phẩm và dịch vụ CNVH đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội

Những thay đổi tích cực về thể chế chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế trong văn hóa và khuyến khích sự tham gia của các thành phần sở hữu, sự đầu tư nguồn vốn trong và ngoài nước vào các ngành CNVH đã thúc đẩy thị trường CNVH Việt Nam có những bước tiến mới, mang lại những đóng góp nhất định vào tăng trưởng GDP của cả nước. Theo thống kê chưa đầy đủ của nhóm nghiên cứu, so với mức GDP chiếm 2,68% năm 2015 (11), các ngành CNVH của Việt Nam ước đạt 3,61% GDP cả nước năm 2018 (12). Sự thay đổi này cho thấy, CNVH Việt Nam đang rút ngắn khoảng cách cạnh tranh với các nền CNVH trên thế giới, góp phần gia tăng sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Thị phần xuất khẩu hàng hóa văn hóa gồm sách, tạp chí, sản phẩm đa phương tiện, phần mềm, bản ghi âm, phim, video, chương trình nghe nhìn, hàng thủ công và thời trang của Việt Nam ra thị trường thế giới trong tổng số kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có sự tăng trưởng rõ rệt hàng năm, trong đó các sản phẩm nghệ thuật thị giác (13) và thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các sản phẩm nghe nhìn (audio-visual goods) và truyền thông tương tác (interactive media goods) bao gồm các sản phẩm phát thanh và truyền hình, truyền phát trực tiếp trên internet (internet livestreaming), phim ảnh và video có sự tăng trưởng vượt bậc về xuất khẩu năm 2019 so với những năm trước đó (14).

Bảng 1: Xuất khẩu hàng hóa văn hóa Việt Nam 2013-2019 phân theo nhóm ngành (Đơn vị: USD) - Nguồn: Dữ liệu truy cập ngày 11-8-2022 từ UIS.Stat

Với đặc trưng sáng tạo và công nghệ, CNVH là hướng đi mới, thậm chí tạo nên hướng đột phá trong phát triển kinh tế tri thức, kinh tế văn hóa để phát triển kinh tế theo chiều sâu. CNVH sẽ đưa đến sự thay đổi cơ cấu các ngành có liên quan, tiếp đó là sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế. Sự xuất hiện các trung tâm sản xuất CNVH làm thay đổi cơ cấu vùng kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng sẽ có sự chuyển dịch thích hợp gắn với quá trình chuyển đổi mô hình các đơn vị sự nghiệp văn hóa cũng như sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các doanh nghiệp văn hóa, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này.

Hạn chế

Cơ chế chuyển hóa tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh trên thị trường văn hóa chưa phát huy hết hiệu quả

Việt Nam có quy mô dân số gần 100 triệu người là một thị trường tiêu thụ tiềm năng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa nội địa, thế nhưng các khảo sát thực tế cho thấy, ngoài sự khởi sắc về doanh thu điện ảnh, du lịch văn hóa, thời trang, sức tiêu dùng của người Việt đối với các sản phẩm CNVH vẫn ưu ái hàng “ngoại” nhiều hơn “nội”. Trong vài năm gần đây, môi trường thể chế dù có nhiều thay đổi đã giảm bớt tình trạng manh mún, tự phát, thiếu kiểm soát trong hoạt động của các ngành văn hóa, nhưng cho đến thời điểm này, môi trường thể chế chưa tạo được sự đột phá có khả năng giải phóng được sức sáng tạo, thúc đẩy đa dạng các biểu đạt văn hóa dựa trên sự kết nối nguồn tài nguyên, các thành tố văn hóa với khoa học công nghệ. Chính vì vậy, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam về cơ bản chất lượng chưa đồng đều, thiếu sự độc đáo, tính ứng dụng chưa cao và cách thể hiện sống động bản sắc văn hóa còn nhiều hạn chế. Điều này khiến cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam chưa thể hiện được năng lực cạnh tranh, thu hút trên thị trường nội địa và quốc tế chưa nhiều, chưa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân trong nước, và gặp khó khăn trong việc tạo nên làn sóng tiêu dùng của khách du lịch tại các điểm đến du lịch. Điều này dẫn đến thực tế, thị trường văn hóa trong nước đang bị xâm lấn bởi các sản phẩm CNVH đến từ các cường quốc sức mạnh mềm văn hóa cùng khu vực châu Á với Việt Nam như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc.

Hợp tác công tư còn nhiều điểm “nghẽn” làm giảm năng lực khai thác hạ tầng cơ sở và huy động tài chính trên thị trường văn hóa

Một trong những hạn chế khác của thị trường văn hóa Việt Nam chính là hợp tác công tư chưa được khai thác hiệu quả. Cơ sở hạ tầng phong phú giàu bản sắc và gần 200 không gian sáng tạo đa dạng các biểu đạt phân bổ trên toàn quốc (không gian văn hóa, nghệ thuật; không gian thiết kế, thương mại điện tử, ứng dụng phần mềm) là một lợi thế để Việt Nam khai thác sức hấp dẫn, khả năng kết nối của thị trường. Tuy nhiên, trên thực tế, một thách thức bao trùm lên các cơ sở hạ tầng văn hóa và không gian sáng tạo vẫn là sự chưa quyết liệt trong mở cửa cho khu vực tư nhân đầu tư, cũng như phá vỡ các rào cản cho các cơ sở hạ tầng văn hóa tìm ra các hướng kết hợp công tư trong khai thác và phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên này.

Bên cạnh khó khăn về thiếu hụt nguồn vốn, mô hình đầu tư, các ngành CNVH - nghệ thuật Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thiếu hụt đáng kể các kiến thức và kỹ năng cần thiết để vận hành hiệu quả trong cơ chế thị trường (như các kỹ năng, kiến thức về sáng tạo, kinh doanh, marketing, gây quỹ, truyền thông...). Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều tổ chức công lập vẫn bị ảnh hưởng bởi nền tảng “phục vụ”, cơ chế “xin-cho”, quá trình tạo lập các sản phẩm, dịch vụ văn hóa còn nặng tính bao cấp, thụ động, vai trò của thị trường với các quy luật cung cầu, cạnh tranh vẫn chưa phát huy được tác dụng đầy đủ. Tồn tại nhiều điểm nghẽn trong các công đoạn của quy trình sản xuất và hệ sinh thái sản xuất/ sáng tạo cho nghệ thuật chưa được xây dựng, phát huy, vận hành đầy đủ (15).

Vi phạm bản quyền vẫn diễn ra phổ biến khiến thị trường văn hóa Việt Nam khó phát triển lành mạnh

Đối với một ngành thiên về tính sáng tạo, vấn đề tác quyền luôn đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, đối với vấn nạn đạo nhái ý tưởng, phát hành sách và phim ảnh, ca nhạc lậu đã được nhà nước quan tâm. Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội thông qua năm 2005, và sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 và mới đây là năm 2022 về quyền tác giả đã phần nào giải quyết được vấn đề trên. Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký nhiều công ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan như Công ước Bern (2004), Công ước Geneva (2005), Công ước Brussels (2006)… Tuy nhiên, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển, đặc biệt là sự lớn mạnh của mạng internet đã khiến cho vấn đề vi phạm bản quyền ngày càng tinh vi và phức tạp. Luật của Việt Nam hiện đang chưa theo kịp những biến đổi của thị trường. Đây vẫn còn là bài toán khó mà hiện các chính sách của Nhà nước chưa thể theo kịp. Việc chưa xem xét thị trường văn hóa với các ngành CNVH là một lĩnh vực có sự kết hợp chặt chẽ giữa sáng tạo, công nghệ và bản quyền đã làm cho thị trường văn hóa Việt Nam chưa tạo được ấn tượng thu hút đối tượng tiêu dùng là người nước ngoài. Tình trạng vi phạm bản quyền có tính phổ biến đang là một trong những hạn chế cơ bản khiến thị trường văn hóa Việt Nam khó có sự phát triển lành mạnh.

Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, vấn đề về đào tạo và quản lý nhân sự theo hướng tăng cường khả năng thích ứng với thị trường văn hóa còn hạn chế

Hệ thống quản lý phân tách khó mang lại một phương thức tiếp cận tổng thể có thể phát huy hiệu quả cho tất cả các ngành CNVH dựa trên sự kết nối giữa sáng tạo và công nghệ. Các ngành CNVH khó chuyển mình trong sự phân tách, cộng thêm những rào cản về thể chế làm chậm quá trình biến văn hóa thành một lĩnh vực đầu tư, mở rộng cửa cho khu vực tư nhân và tạo điều kiện cho giải phóng sức sáng tạo, đa dạng hóa các biểu đạt thể hiện bản sắc và tính ứng dụng trong các sản phẩm, dịch vụ và không gian sáng tạo khiến cho CNVH chưa là một ngành kinh tế mũi nhọn. Đây chính là điểm yếu cốt tử trong việc hiện thực hóa mục tiêu coi CNVH là ngành kinh tế mũi nhọn phát huy khả năng chủ động hội nhập quốc tế của thị trường văn hóa Việt Nam hiện nay.

Các thành phần kinh tế chưa tìm ra giải pháp đột phá trong quá trình xây dựng thị trường văn hóa Việt Nam

Mặc dù, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, chỉ thị, thậm chí đưa ra nhiều biện pháp mạnh để cải tổ bộ máy và đổ nhiều tiền vào đầu tư cơ sở hạ tầng, song đến nay, những doanh nghiệp nhà nước thành công trong lĩnh vực giải trí không nhiều. Đặc biệt khi Nhà nước dần áp dụng các chính sách tự hoạch toán chi tiêu lên các đơn vị này, một cuộc khủng hoảng kéo dài đã diễn ra. Chỉ những đơn vị chấp nhận thay máu, cải tổ chính mình mới có thể tồn tại. Bên cạnh đó, các thành phần kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, về đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Thứ hai, vấn đề nhân sự và quản lý trong các công ty tư nhân thuộc thị trường văn hóa cũng có nhiều khó khăn. Hiện nay, tỷ trọng người lao động đang hoạt động trong thành phần kinh tế tư nhân đang chiếm đa số. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước trong khu vực, thì chất lượng nhân sự vẫn chưa thể đa dạng và sánh bằng được. Đối với các tập đoàn tư nhân lớn tại Việt Nam, cách thức quản lý khá chuyên nghiệp. Hầu hết công thức quản lý doanh nghiệp đều tương ứng với mô hình chung trên thế giới. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực văn hóa, cách thức quản lý vẫn còn thiếu chuyên nghiệp và chưa có sự linh hoạt. Thứ ba, chất lượng sản phẩm văn hóa còn hạn chế về khả năng thích ứng với thị trường.

3. Kết luận

Những kết quả nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn đã từng bước cho thấy, trong những năm gần đây, đổi mới thể chế đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành CNVH Việt Nam trên thị trường văn hóa. Nhưng hiện nay, dù có nhiều tiềm năng lợi thế, con đường vươn tầm thương hiệu CNVH, định vị bản sắc văn hóa Việt Nam ở các sản phẩm - dịch vụ CNVH trên thị trường quốc tế còn rất khó khăn. Đây chính là thách thức lớn đòi hỏi Việt Nam muốn xây dựng thị trường văn hóa theo hướng phát huy khả năng chủ động hội nhập quốc tế của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa nhằm góp phần chấn hưng văn hóa nước nhà cần triển khai những giải pháp có tính thực tế và đột phá hơn về thể chế. Cụ thể, trong thời gian tới, Việt Nam cần ưu tiên triển khai các nhóm giải pháp chính gồm: hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là luật cạnh tranh nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu quả và đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường văn hóa Việt Nam; triển khai nhóm giải pháp hoàn thiện thị trường văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành CNVH có thế mạnh hội nhập quốc tế; chú trọng phát triển thị trường văn hóa trên không gian mạng; tăng cường đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và thực hiện các giải pháp linh hoạt về quản lý nhân sự trong cơ chế thị trường và các nhóm giải pháp khác.

_______________________

1. Trần Nho Thìn, Công nghệ sáng tạo và văn hóa, vanhoanghean.com.vn, 12-5-2015.

2. O’Connor, J., The definition of the “cultural industries” (Định nghĩa về “Các ngành CNVH”), The European Journal of Arts Education (Tạp chí Giáo dục Nghệ thuật châu Âu), 2000, tr.15-27.

3. UNESCO, Cultural Industries - a challenge for the future of culture (CNVH - một thách thức cho tương lai của văn hóa), Paris, 1982.

4. Nguyễn Thu Phương (chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng thị trường văn hóa nhằm chủ động hội nhập quốc tế, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, 2021.

5. Đỗ Thị Quyên, Thị trường văn hóa, khái niệm và đặc trưng, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 400, 2017, tr.90-91.

6, 7. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin (dành cho bậc đại học - không chuyên lý luận chính trị), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2019, tr.38, 108.

8. Trần Quang Tuyến, Lê Văn Đạo, Tiêu chí về nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế: Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tapchicongsan.org.vn, 7-12-2020.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 1998, tr.55.

10. Nghị quyết của Bộ chính trị về phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, Tạp chí Thông tin Văn hóa và Phát triển, số 17, 2008.

11. Số liệu Bộ VHTTDL năm 2015.

12. Số liệu chưa đầy đủ do nhóm chuyên gia phân tích số liệu Vicas thực hiện.

13. Theo định nghĩa của UNESCO, Nghệ thuật thị giác là nghệ thuật thu hút chủ yếu đến cảm quan thị giác; chúng là loại hình nghệ thuật tập trung vào việc tạo ra các tác phẩm, chủ yếu mang tính chất thị giác, hoặc là các đối tượng đa chiều. Nguồn: UIS, 2009 UNESCO Framework for Cultural Statistics (2009 Khung thống kê văn hóa của UNESCO), 2009.

14. Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Thu Phương và các cộng sự, Đề án đánh giá Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ VHTTDL, Hà Nội, 2022.

15. Đỗ Thị Thanh Thủy, Để phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam: một vài nhận thức và cách tiếp cận, Kỷ yếu Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021.

PGS, TS NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNg - Ths PHẠM THỊ NHUNG - Ths HOÀNG THỊ THU THỦY

Nguồn: Tạp chí VHNT số 509, tháng 9-2022

;