Thực tiễn và hành trình hoàn thiện nội dung pháp lý trong Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)

Danh thắng Tam Cốc - Ảnh: Ninh Mạnh Thắng

Sau hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, ngày càng được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân ở khắp mọi miền đất nước. Nhờ đó, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng hiệu quả, với những thành tựu đáng ghi nhận: đã xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, thành phố, 3.621 di tích quốc gia và 130 di tích quốc gia đặc biệt (trên tổng số 40.000 di tích đã được kiểm kê); khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, 534 di sản được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các di sản của Việt Nam được UNESCO công nhận/ ghi danh, bao gồm: 9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; 15 di sản văn hóa phi vật thể (trong đó 13 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và 2 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp); 9 di sản tư liệu (3 di sản tư liệu thế giới, 6 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương)…

Hệ thống bảo tàng đã phát triển từ một vài bảo tàng được xây dựng từ thời Pháp thuộc hiện đã trở thành một hệ thống gồm 197 bảo tàng (127 bảo tàng công lập và 70 bảo tàng ngoài công lập) đang bảo quản, lưu giữ, trưng bày và phát huy giá trị trên 4 triệu hiện vật - là di vật, cổ vật quý giá mang đặc trưng văn hóa của địa phương, vùng miền, quốc gia. Hiện nay, đã có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia, trong đó 168 hiện vật, nhóm hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản, trưng bày và phát huy giá trị tại các bảo tàng công lập và ngoài công lập trên phạm vi toàn quốc.

Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập cả về nội dung và hình thức trong từng lĩnh vực cụ thể. Chính vì vậy, việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa là hết sức cần thiết để bắt kịp sự vận động và biến chuyển của xã hội, điều chỉnh, cụ thể hóa được những vấn đề còn vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng như hội nhập quốc tế.

1. Sự cần thiết, mục tiêu và quan điểm xây dựng Dự án Luật

Việc ban hành Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về văn hóa, di sản văn hóa. Sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật về di sản văn hóa hiện hành, khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, kinh tế số, các hoạt động dịch vụ, hợp tác công tư trong các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; đảm bảo tính kế thừa, tính thống nhất, đồng bộ giữa quy định của Luật Di sản văn hóa với các luật khác có liên quan.

Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được xây dựng trên cơ sở mục tiêu, quan điểm cụ thể:

(i) Thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng; bảo đảm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc một cách bền vững, góp phần phát triển kinh tế, xã hội.

 (ii) Các chính sách về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phải toàn diện, đồng bộ, thống nhất, được đánh giá kỹ tác động, phân loại hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phù hợp quy định pháp luật, tình hình thực tiễn, bảo đảm tính khả thi.

(iii) Nghiên cứu, bổ sung các quy định về phân cấp, ủy quyền trong quản lý di sản văn hóa theo hướng các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương có trách nhiệm ban hành thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn, điều kiện, phân bổ nguồn lực và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, thi đua khen thưởng... làm cơ sở, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý di sản văn hóa.

(iv) Khắc phục những bất cập, hạn chế sau 23 năm thực hiện Luật Di sản văn hóa 2001 và 15 năm thực hiện Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa 2009; khắc phục tình trạng “luật khung”, “luật ống”; kế thừa, chỉ quy định cụ thể các nội dung phù hợp đã được kiểm chứng trong thực tiễn, có tính ổn định cao; sửa đổi những quy định chồng chéo, bất cập, không phù hợp, không khả thi; bổ sung các chính sách, quy định mới để giải quyết các vấn đề thực tiễn đang đặt ra.

(v) Rà soát các luật có liên quan trực tiếp với Luật Di sản văn hóa có quy định liên quan đến di sản văn hóa hoặc gián tiếp có liên quan để quy định trong Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật; nội luật hóa các công ước quốc tế, chương trình có liên quan đến di sản văn hóa mà Việt Nam là thành viên để bảo đảm tương thích và thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa và di sản văn hóa.

2. Căn cứ xây dựng Dự án Luật

Luật Di sản văn hóa đã cụ thể hóa chính sách bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa dân tộc tại Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết số 33 của BCH Trung ương khóa XI và Kết luận số 76-KL/TW ngày 4-6-2020 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; nhất là, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng         (24-11-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định rõ vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát triển kinh tế, xã hội và là cơ hội để các cấp, các ngành xây dựng chiến lược phát triển văn hóa trong thời đại mới, với những nội dung chính: “Quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Phát triển “sức mạnh mềm” của văn hóa Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới...”; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20-5-2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, trong đó giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) nghiên cứu, xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), trình Quốc hội năm 2024.

3. Bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật trong nước và phù hợp với những cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên

Sự chồng chéo giữa văn bản pháp luật về di sản văn hóa và văn bản pháp luật khác có liên quan xuất hiện từ năm 2014 (trong cả lĩnh vực di tích, bảo tàng và di sản văn hóa phi vật thể). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Quốc hội đã ban hành và sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật đã khắc phục được những chồng chéo, đồng thời tạo ra những thay đổi, phát sinh đến hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa như: Hiến pháp năm 2013, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022), Luật Đa dạng sinh học năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2018), Luật Lưu trữ năm 2011, Luật Đầu tư công năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2022), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch năm 2018, Luật Xây dựng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Phí và lệ phí năm 2015, Luật Quy hoạch năm 2017, Luật Lâm nghiệp năm 2017, Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2022), Luật Thi đua, khen thưởng năm 2022, Luật Quy hoạch đô thị, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự.

Do một số quy định của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường có quy định liên quan đến di sản văn hóa, vì vậy, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) cũng cần nghiên cứu để quy định phù hợp và thống nhất với các luật. Riêng đối với vấn đề giao thoa giữa Luật Di sản văn hóa hiện hành và Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) với Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi), Chính phủ đã giao Bộ Nội vụ phối hợp với các cơ quan của Quốc hội (Ủy ban Pháp luật) để chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) cho phù hợp, đã được nêu rõ tại Tờ trình số 39 của Chính phủ trình Quốc hội về hồ sơ Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Theo đó, tại Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Bộ VHTTDL đã quy định rõ (tại khoản 1 Điều 6), mọi di sản văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam đều được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật khác có liên quan, để bảo đảm bao quát hết được các lĩnh vực, đồng bộ với các luật, trong đó có Luật Lưu trữ. Tuy nhiên, quy định về tiêu chí xác định tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt, tài liệu lưu trữ tư có giá trị đặc biệt trong nội dung Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) mới nhất vẫn đang còn chồng lấn, trùng lắp với tiêu chí xác định bảo vật quốc gia quy định tại Điều 41a trong Luật Di sản văn hóa hiện hành, dẫn đến mâu thuẫn về biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của 2 luật, sẽ dẫn đến khó khăn phát sinh trong thực tiễn thực hiện.

Trong lĩnh vực văn hóa, Việt Nam đã tham gia 5 Công ước quốc tế và 1 Chương trình, trong đó, về di sản văn hóa gồm có:

Đối với Công ước UNESCO 1970, cơ bản gồm 2 nhóm quy định: 1) Chống buôn bán trái phép cổ vật trong nước và buôn bán cổ vật ra nước ngoài; 2) Khuyến khích việc hồi hương những cổ vật được xác định là buôn bán và nhập khẩu trái phép. Nội dung về nhóm quy định thứ nhất của Công ước đã được quy định trong Luật Di sản văn hóa. Tuy nhiên, nội dung về nhóm quy định thứ hai của Công ước lại chưa được cụ thể trong các văn bản pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam.

Đối với Công ước 1972 về Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và văn bản hướng dẫn thực hiện Công ước có sửa đổi, bổ sung những quy định mới của UNESCO về hoạt động quản lý di sản và hướng dẫn các quốc gia nghiên cứu, thực hiện về đầu mối thực hiện và quy trình thực hiện công tác kiểm tra, giám sát quản lý di sản, việc lập hồ sơ đề nghị công nhận di sản đa quốc gia, về cơ chế quản lý, bảo vệ di sản...

Năm 2003, Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO thông qua, và năm 2005, Việt Nam đã trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên gia nhập Công ước quốc tế này. Di sản văn hóa phi vật thể được quy định vào Luật Di sản văn hóa 2001 trước khi Công ước 2003 của UNESCO ra đời. Do đó, những nội dung của Công ước 2003 cần được nghiên cứu, bổ sung vào Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) như các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, các biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản, cơ chế tôn trọng quyền của cộng đồng chủ thể di sản.

Năm 1992, UNESCO khởi xướng Chương trình Ký ức Thế giới, Việt Nam chính thức tham gia là quốc gia thành viên của Chương trình từ năm 2007. UNESCO đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình Ký ức Thế giới nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa có văn bản quy định quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu hay văn bản quy phạm pháp luật về di sản tư liệu.

Cùng với việc phổ biến, hướng dẫn thực hiện các Công ước, Việt Nam đã từng bước thực hiện các cam kết nội luật hóa quan điểm của Công ước vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa. Đồng thời, rà soát đảm bảo sự phù hợp nội dung các chính sách mới với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia nêu trên (Công ước ICESCR về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; Công ước có liên quan như: Công ước CERD về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước ICCPR về các quyền dân sự và chính trị).

4. Quá trình xây dựng, bổ sung và hoàn thiện Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)

Căn cứ Nghị quyết số 89/2023/QH15 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 và điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023; Quyết định số 805/QĐ-TTg ngày      6-7-2023 của Thủ tướng Chính phủ về phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật được điều chỉnh trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và các dự án luật thuộc Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024; Chính phủ đã giao Bộ VHTTDL chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện các công việc theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể như sau:

Tổng kết thi hành Luật Di sản văn hóa năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) (theo Quyết định số 2690/QĐ-BVHTTDL ngày 20-10-2021 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL).

Lập hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) theo quy định của pháp luật (theo Quyết định số 854/QĐ-BVHTTDL ngày 12-4-2022 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL).

Ban hành Kế hoạch xây dựng Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập xây dựng Dự án Luật, tổ chức các phiên họp của Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập (theo Quyết định số 1963/QĐ-BVHTTDL ngày 21-7-2023 và Quyết định số 2573/QĐ-BVHTTDL ngày 31-8-2023 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL).

Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến Luật Di sản văn hóa, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Tổ chức xây dựng Dự án Luật; khảo sát, tọa đàm, hội thảo, xin ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học về các chính sách, nội dung của Dự án Luật (từ tháng 7 đến tháng 11-2023).

Tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về Dự án Luật và đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử Bộ VHTTDL theo quy định (từ tháng 10 đến tháng 12-2023).

Nghiên cứu, tiếp thu ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức và nhân dân, hoàn thiện hồ sơ Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) gửi Bộ Tư pháp thẩm định (theo Công văn số 5831/BVHTTDL-DSVH ngày 29-12-2023 của Bộ VHTTDL cùng hồ sơ  kèm theo).

Tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp (theo Báo cáo số 37/BC-BVHTTDL ngày 6-2-2024 của Bộ VHTTDL cùng hồ sơ     kèm theo).

Hoàn thiện hồ sơ trình Chính phủ thảo luận, thông qua hồ sơ Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) trình Quốc hội theo quy định (theo Tờ trình số 119/TTr-CP ngày 29-3-2024 của Bộ VHTTDL cùng hồ sơ kèm theo).

Tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội và ý kiến tại các cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV (từ tháng 3 đến tháng 5-2024).

Tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 tháng 6-2024 (từ tháng 6 đến tháng 7-2024).

Tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu tại Phiên họp chuyên đề Pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (từ tháng 7 đến tháng 8-2024).

Tiếp thu, giải trình ý kiến của Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tháng 8-2024.

Hiện, Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đang hoàn thiện hồ sơ để trình Chính phủ, trình Quốc hội chuẩn bị thông qua tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV (từ tháng 8 đến tháng 9-2024).

5. Nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)

Những nội dung cụ thể hóa chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)

Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) tập trung vào 3 nội dung chính trong các chính sách đã được Quốc hội thông qua, bao gồm: “Chính sách 1: Hoàn thiện các quy định về nguyên tắc, đối tượng, trình tự, thủ tục kiểm kê, nhận diện, ghi danh, biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở các lĩnh vực di sản văn hóa vật thể (di tích; di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia), di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu và hoạt động bảo tàng. Chính sách 2: Nâng cao hiệu quả tổ chức, hoạt động của các cơ quan trực tiếp quản lý di sản, tăng cường nội dung, trách nhiệm, cơ chế thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước về di sản văn hóa từ Trung ương đến địa phương. Chính sách 3: Tăng cường nội dung, cơ chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa và thu hút, nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”.

 Đối với Chính sách 1: Bộ VHTTDL đã nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện với nội dung cụ thể như: 1) Bổ sung, hoàn thiện một số thuật ngữ liên quan để tạo cách hiểu thống nhất trong thực thi và áp dụng pháp luật; 2) Quy định rõ quyền sở hữu, quyền khác đối với di sản văn hóa, tạo cơ sở để xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của chủ sở hữu, chủ thể di sản trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản; Quy định di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng được chuyển nhượng thông qua mua bán dân sự, trao đổi, tặng cho, thừa kế ở trong nước để gia tăng giá trị của di sản, chỉ cấm kinh doanh mua bán bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; cấm kinh doanh xuất khẩu di vật, cổ vật nhằm tránh mất mát di sản văn hóa ra nước ngoài; đồng thời, quy định các biện pháp quản lý hiệu quả như: di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu toàn dân phải được quản lý trong các bảo tàng công lập, di tích và các cơ quan, tổ chức nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thích hợp; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sưu tầm và trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; quy định hoạt động kinh doanh giám định di vật, cổ vật nhằm ngăn chặn kinh doanh, mua bán trái phép di vật, cổ vật và làm mất mát di sản văn hóa; 3) Bổ sung quy định xác lập cơ chế ghi danh, công nhận, thực thi các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có phạm vi phân bố liên tỉnh, liên quốc gia; 4) Quy định cụ thể về biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa: nhận diện, kiểm kê, ghi danh, xếp hạng, công nhận; lập và triển khai quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa...

Đối với Chính sách 2: Bộ VHTTDL đã nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện với nội dung cụ thể như:        1) Quy định phân cấp, phân quyền đảm bảo các nguyên tắc về phân cấp, phân quyền trên cơ sở quy định của pháp luật liên quan. Trong đó, có quy định cụ thể về nội dung phân cấp, phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương, rõ trách nhiệm quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương; 2) Quy định rõ cơ chế, nguyên tắc phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với Bộ VHTTDL trong quản lý nhà nước về di sản văn hóa; 3) Quy định rõ về nội dung, nhiệm vụ, trách nhiệm để phân định rõ các nội dung hoạt động và trách nhiệm của các tổ chức được giao quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát huy giá trị di sản văn hóa;  4) Quy định về thanh tra, nội dung kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa.

Đối với Chính sách 3: Bộ VHTTDL đã nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện với nội dung cụ thể như: 1) Quy định rõ quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu, chủ thể di sản văn hóa trong việc đầu tư kinh phí cho bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa do cá nhân, cộng đồng sở hữu, đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp để chia sẻ lợi ích công bằng cho các đối tượng liên quan đối với nguồn thu từ di sản văn hóa khi tham gia đầu tư cho di sản văn hóa và đảm bảo cơ chế phù hợp để khuyến khích hợp tác trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; 2) Quy định về hoạt động kinh doanh, dịch vụ về di sản văn hóa; 3) Quy định về các nguồn lực cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; 4) Quy định nội dung cơ chế, khai thác, sử dụng di sản trong hợp tác công tư để đầu tư, phát huy giá trị di sản trong bối cảnh hiện nay phục vụ công nghiệp văn hóa và phát triển kinh tế, xã hội…

Nội dung cơ bản của Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi)

Chương I. Những quy định chung

Chương này quy định về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Giải thích từ ngữ; Sở hữu di sản văn hóa; Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Nguyên tắc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Chính sách của Nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Quy định ngày di sản văn hóa Việt Nam; Các hành vi nghiêm cấm. Luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh trên cơ sở gộp Điều 1 và Điều 2 của Luật Di sản văn hóa hiện hành, bổ sung thêm “quản lý” để đảm bảo đầy đủ, xuyên suốt các hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa. Chương này bổ sung giải thích các từ ngữ liên quan đến nội dung các quy định trong dự thảo luật ở tất cả các lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, bảo tàng…

Chương II. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể

Chương này với những nội dung: Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể gồm 6 loại hình; Kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể; Danh sách, hình thức và tiêu chí ghi danh di sản văn hóa phi vật thể; Ghi danh và hủy bỏ ghi danh di sản văn hóa phi vật thể; Chính sách đối với nghệ nhân, chủ thể của di sản văn hóa phi vật thể; Duy trì thực hành, truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể; Nghiên cứu, tư liệu hóa di sản văn hóa phi vật thể; Bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể đã được ghi danh; Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền; Biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam; Biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị lễ hội truyền thống.

 Chương III. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể

Mục 1: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, trong đó quy định rõ hơn những nội dung chủ yếu: Phân loại di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; Tiêu chí nhận diện di tích theo loại hình; Kiểm kê di tích và di tích trong danh mục được kiểm kê; Cấp độ, tiêu chí công nhận và hình thức công nhận di tích; Công nhận và hủy bỏ công nhận di tích; Khu vực bảo vệ di tích; Bảo vệ khu vực bảo vệ I và khu vực bảo vệ II của di tích; Dự án đầu tư, xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích; Dự án đầu tư, xây dựng công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích có khả năng tác động tiêu cực đến di tích, cảnh quan thiên nhiên, môi trường - sinh thái của di tích; Xây dựng nhà ở riêng lẻ nằm ngoài các khu vực bảo vệ di tích có khả năng tác động tiêu cực đến di tích, cảnh quan thiên nhiên, môi trường - sinh thái của di tích; Đưa thêm, di dời, thay đổi, thống kê hiện vật trong di tích; Người đại diện, ban quản lý di tích; Nhiệm vụ của ban quản lý di tích; Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Phát huy giá trị di tích; Quy hoạch khảo cổ; Quản lý, bảo vệ địa điểm khảo cổ; Thăm dò, khai quật khảo cổ.

Mục 2: Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, trong đó, quy định những nội dung như: Giám định, điều kiện thực hiện giám định di vật, cổ vật và đăng ký di vật, cổ vật; Công nhận bảo vật quốc gia; Quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và xử lý di vật, cổ vật được phát hiện giao nộp; Chuyển nhượng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Yêu cầu bảo vệ, bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Hoạt động bảo quản di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; Sưu tầm, kiểm kê di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Trưng bày di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Bảo vệ và phát huy giá trị di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trong nhà truyền thống, nhà lưu niệm, nhà trưng bày hoặc thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản có thời hạn ở trong nước và nước ngoài; Mua và đưa di vật, cổ vật có nguồn gốc Việt Nam ở nước ngoài về nước; Bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Chương IV. Bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu

Đây là Chương mới, được đưa vào Dự thảo Luật để đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa, với các nội dung quy định về: Phân loại và tiêu chí nhận diện di sản tư liệu; Kiểm kê di sản tư liệu; Ghi danh di sản tư liệu; Thẩm quyền, thủ tục ghi danh và hủy bỏ ghi danh di sản tư liệu; Bảo quản di sản tư liệu; Nghiên cứu di sản tư liệu và nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày di sản tư liệu thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Phục chế di sản tư liệu; Hoạt động quản lý và phát huy giá trị di sản tư liệu thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng; Lập đề án, dự án, kế hoạch và báo cáo định kỳ về bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu sau khi được ghi danh; Đưa di sản tư liệu sau khi được ghi danh đi trưng bày, nghiên cứu hoặc bảo quản ở trong nước, nước ngoài và từ nước ngoài về nước; Bản sao của di sản tư liệu.

Chương V. Bảo tàng

Đây là chương mới, được tách ra từ Mục 3 Chương IV Luật Di sản văn hóa hiện hành. Các nội dung có kế thừa, điều chỉnh, bổ sung cụ thể hơn hoặc quy định mới, qua đó hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động bảo tàng, với những nội dung chủ yếu là: Hệ thống bảo tàng Việt Nam; Nhiệm vụ của bảo tàng; Điều kiện để thành lập bảo tàng công lập và cấp phép hoạt động bảo tàng ngoài công lập; Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật và trưng bày trong nhà, ngoài trời của bảo tàng công lập; Thành lập bảo tàng công lập và cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động bảo tàng ngoài công lập; Xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng công lập và thẩm quyền xếp hạng, xếp lại hạng bảo tàng công lập; Tiêu chuẩn xếp hạng bảo tàng; Hoạt động sưu tầm, tư liệu thông tin về hiện vật và di sản văn hóa phi vật thể; Hoạt động kiểm kê hiện vật; Hoạt động bảo quản hiện vật; Hoạt động trưng bày hiện vật và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; Hoạt động giáo dục; Hoạt động truyền thông; Hoạt động dịch vụ của bảo tàng.

Chương VI. Hoạt động kinh doanh, dịch vụ về di sản văn hóa

Đây là Chương mới trong Luật, với những quy định về: Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh và các ngành, nghề kinh doanh, Giấy chứng nhận, Chứng chỉ đủ điều kiện kinh doanh bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Kinh doanh giám định di vật, cổ vật; Kinh doanh di vật, cổ vật; Kinh doanh dịch vụ bảo tàng.

Chương VII. Điều kiện đảm bảo hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa

Chương này gồm nhiều quy định mới trong Luật nhằm thu hút được nhiều nguồn lực trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bao gồm các nội dung: Nguồn tài chính để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Ngân sách nhà nước chi cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Nguồn nhân lực quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa; Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Phát huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường điện tử; Tuyên truyền, quảng bá di sản văn hóa; Xã hội hóa trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Sử dụng, khai thác di sản văn hóa; Hợp tác công tư trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Quỹ bảo tồn  di sản văn hóa.

Chương VIII. Quản lý nhà nước về di sản   văn hóa

Chương này với những quy định cụ thể về: Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa; Trách nhiệm của Chính phủ và Bộ VHTTDL; Trách nhiệm của các bộ, ngành; Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp; Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia; Hợp tác quốc tế về di sản văn hóa; Thanh tra di sản văn hóa.

Chương IX. Điều khoản thi hành

Bao gồm quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật có liên quan, quy định về hiệu lực thi hành, áp dụng pháp luật và quy định chuyển tiếp.

Kết luận

Về tổng thể, Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) kế thừa, bổ sung nhiều quy định của Luật Di sản văn hóa hiện hành và bổ sung nhiều quy định mới để khắc phục những hạn chế, bất cập về thể chế, chính sách, giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Bố cục dự thảo Luật gồm 9 chương, 101 điều (tăng 2 chương, 28 điều so với Luật Di sản văn hóa hiện hành). Điểm mới của Dự thảo Luật là mở rộng phạm vi điều chỉnh (di sản tư liệu) và bổ sung đối tượng áp dụng (cộng đồng); bổ sung các quy định về đầu tư, xây dựng, cải tạo công trình trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích; hoạt động kinh doanh, dịch vụ về di sản văn hóa; các điều kiện bảo đảm hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa…; kế thừa có bổ sung các quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Ngoài ra, Dự thảo Luật cũng lựa chọn luật hóa một số quy định trong các văn bản dưới luật như điều kiện, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, tiêu chuẩn xếp hạng bảo tàng… làm tăng tính cụ thể và khả thi của Luật.

Có thể khẳng định rằng, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) là cần thiết, nhằm thể chế chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa và di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay, đẩy mạnh thu hút nguồn lực xã hội hóa, hợp tác công tư, ứng dụng khoa học công nghệ thông tin, chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu bảo tồn và phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập quốc tế.

TS HOÀNG ĐẠO CƯƠNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 584, tháng 10-2024

;