Game là một trong những ngành thuộc lĩnh vực "Phần mềm và các trò chơi giải trí"được định hướng phát triển trong Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Cùng với xu hướng đó, board game Việt Nam khai thác chất liệu văn hóa ngày càng được giới trẻ ưa chuộng; tuy nhiên, để hình thành một ngành có doanh thu bền vững, rất cần các giải pháp đồng bộ.
Trong thời đại hội nhập quốc tế sâu rộng và cách mạng công nghiệp 4.0, bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát triển bền vững của nền công nghiệp văn hóa Việt Nam. Quyền tác giả và quyền liên quan bảo đảm lợi ích cho người sáng tạo, doanh nghiệp và cộng đồng, đồng thời định hình văn hóa, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần và quảng bá hình ảnh quốc gia.
Trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, thủ công mỹ nghệ được xác định là một trong 12 lĩnh vực trụ cột, góp phần tạo ra những sản phẩm - dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế, góp phần đưa văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá hình ảnh đất nước. Đây là sự khẳng định tầm nhìn của Đảng và Nhà nước trong phát triển văn hóa: từ “bảo tồn thuần túy” sang “phát triển dựa trên sáng tạo”, từ “giữ gìn giá trị” sang “chuyển hóa giá trị văn hóa thành nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững”.
Tóm tắt: Bài viết phân tích vai trò của sức mạnh mềm văn hóa trong chiến lược đối ngoại của Cộng hòa Pháp, nơi văn hóa được coi là cốt lõi làm nên uy tín và tầm ảnh hưởng quốc gia. Pháp đã xây dựng mạng lưới rộng khắp các viện văn hóa, trường đại học, tổ chức nghệ thuật, điện ảnh và truyền thông quốc tế, qua đó quảng bá ngôn ngữ, di sản và lối sống Pháp ra toàn cầu. Nhờ đó, Pháp không chỉ duy trì vị thế cường quốc văn hóa mà còn gắn kết hiệu quả ngoại giao chính trị, kinh tế và giáo dục. Từ trường hợp này, bài viết rút ra bài học cho Việt Nam: cần có tầm nhìn chiến lược dài hạn, đầu tư thiết chế văn hóa đối ngoại, phát huy giá trị ngôn ngữ và di sản, đa dạng hóa kênh truyền thông, đồng thời kết hợp văn hóa với lợi ích kinh tế, chính trị. Văn hóa, vì vậy, không chỉ là “mặt mềm” mà là một trụ cột chiến lược trong phát triển và hội nhập quốc tế.
Tóm tắt: Nghi lễ trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay đóng vai trò quan trọng trong giáo dục và rèn luyện học viên, góp phần hình thành phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Thông qua các nghi lễ truyền thống, nhà trường quân đội giáo dục sâu sắc về truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng; xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, lễ tiết tác phong chính quy; bồi đắp tinh thần đoàn kết, niềm tự hào và trách nhiệm của quân nhân đối với Tổ quốc. Nghi lễ được thực hiện trang trọng, thống nhất cũng góp phần tạo dựng môi trường văn hóa sư phạm quân sự mẫu mực, nâng cao hiệu quả đào tạo. Trong bối cảnh mới, việc tổ chức nghi lễ cần tiếp tục được phát huy một cách sáng tạo, tránh hình thức, nhằm giữ vững và lan tỏa những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tóm tắt: Tỉnh Đồng Nai hiện là nơi cư trú tập trung của cộng đồng người S’tiêng - một dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa phong phú và tổ chức xã hội đặc thù. Việc nghiên cứu về vai trò phụ nữ S’tiêng tại Đồng Nai được thực hiện qua hai khung lý thuyết:“thương lượng với chế độ phụ quyền” (Kandiyoti) và “nhóm câm lặng” (E. Ardener) của bài viết đã cho thấy phụ nữ S’tiêng vừa đối diện cấu trúc quyền lực truyền thống, vừa thích ứng với hội nhập và biến đổi gia đình; đồng thời, sự so sánh nhóm phụ hệ (Bù Lơ) và mẫu hệ (Bù Đéc) là chiến lược thương lượng giới khác biệt, phản ánh sự bền bỉ của chuẩn mực văn hóa và tính chủ động tái định nghĩa vai trò phụ nữ S’tiêng đã được mở rộng vị trí trong kinh tế hộ gia đình, nghi lễ, dòng họ và cộng đồng. Bên cạnh đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nội sinh nhằm tăng quyền năng phụ nữ, gắn bảo tồn văn hóa với phát triển bền vững dựa vào nội lực cộng đồng.
Tóm tắt: Bài viết phân tích vai trò của giáo dục nhân văn trong bối cảnh phát triển bền vững, đồng thời khảo sát mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục nhân văn và xây dựng con người mới trong thế giới hiện đại. Trong TK XXI, khi những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường và bất bình đẳng xã hội ngày càng trở nên cấp bách, giáo dục nhân văn không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà còn phải gắn liền với trách nhiệm đạo đức và phẩm hạnh của con người đối với xã hội và môi trường. Tác giả trình bày những luận điểm lý luận, phương pháp và thực tiễn của giáo dục nhân văn hướng đến phát triển bền vững, với mục tiêu tạo ra những con người có tri thức và năng lực, đồng thời có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội và hành tinh.
Là một đơn vị trực thuộc Bộ VHTTDL, trong những năm qua, Nhà hát Kịch Việt Nam luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị - văn hóa, nghệ thuật của đơn vị theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. Trong dòng chảy suốt hơn 70 năm hình thành và phát triển, Nhà hát Kịch Việt Nam đã trở thành một trong những đơn vị nghệ thuật tiêu biểu, có vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng nền sân khấu cách mạng nước nhà. Là đơn vị nghệ thuật kịch nói đầu tiên của cả nước, ra đời trong khói lửa kháng chiến, từ năm 1952 đến nay, chặng đường phát triển của Nhà hát Kịch Việt Nam là hành trình của sự cống hiến bền bỉ, sáng tạo không ngừng, luôn đồng hành cùng dân tộc và thời đại.
Trải qua 80 năm hình thành và phát triển ngành Văn hóa đã và đang khẳng định vai trò là nền tảng tinh thần vững chắc, là động lực nội sinh thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước. Trong hành trình ấy, Nghệ An cũng đã có những bước tiến dài và vững chắc trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa. Từ một nhiệm vụ chính trị trở thành một khát vọng phát triển, đời sống văn hóa ở Nghệ An ngày càng thấm sâu vào từng ngõ ngách của đời sống xã hội, trở thành nền tảng cho sự phát triển toàn diện của tỉnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tóm tắt: Bảo tồn và quảng bá văn hóa là một trong những phương thức hiệu quả giúp quảng bá hình ảnh quốc gia và tác động sâu rộng tới sự phát triển của quốc gia đó. Trên phương diện nghệ thuật sân khấu, đặc biệt là sân khấu thực cảnh, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành công trong việc khai thác và sử dụng loại hình nghệ thuật này để thể hiện những nét văn hóa truyền thống ưu tú của dân tộc mình. Tuy nhiên, vẫn đối mặt với thách thức về việc lạm dụng công nghệ, thiếu chiều sâu nội dung và tính tương tác một chiều. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, bài viết đưa ra các bài học cho Việt Nam về xây dựng hệ sinh thái văn hóa - du lịch, ứng dụng công nghệ dựa trên chất liệu văn hóa, xây dựng thương hiệu IP và làm mới nội dung định kỳ.
Tóm tắt: Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ số và mạng xã hội, các nghệ sĩ Việt Nam đang đẩy mạnh truyền thông thương hiệu cá nhân, xây dựng hình ảnh, tăng cường sự tương tác và duy trì sự yêu mến và lòng trung thành của đông đảo công chúng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, các nghệ sĩ đang phải đối mặt với không ít thách thức và các vấn đề pháp lý, bao gồm vi phạm về phát ngôn, quảng cáo sai lệch, lùm xùm trong từ thiện hoặc chia sẻ thông tin không chính xác, gây ảnh hưởng tiêu cực đến công chúng và thương hiệu cá nhân của chính nghệ sĩ. Bài viết này cung cấp các cơ sở về chính trị và pháp lý đối với các hoạt động của nghệ sĩ trên mạng xã hội tại Việt Nam gồm các chủ trương, định hướng của Đảng, cũng như các quy định pháp lý hiện hành, những chính sách quản lý của Nhà nước liên quan đến các hoạt động của các nghệ sĩ Việt trên mạng xã hội.