z7375396442247_79593fadcdbc474b0630de4c9ff36bba.jpg
Đặc sắc dân ca, dân vũ của dân tộc Ê-đê - Ảnh: Tuấn Minh

Từ điệu Then (Tày), múa Xòe (Thái) đến điệu múa khèn (Mông)… mỗi âm điệu là một phần bản sắc, là “linh hồn” của núi rừng, đó cũng chính là dân ca, dân vũ là mạch nguồn nuôi dưỡng đời sống tinh thần của đồng bào DTTS. Chúng không đơn thuần là nghệ thuật biểu diễn, mà còn là kho tri thức dân gian và một dạng “bộ sử thi” lưu giữ tâm hồn, tín ngưỡng, phong tục tập quán qua nhiều thế hệ. 

Dân ca, dân vũ đi cùng mỗi con người từ thuở lọt lòng qua lời ru của bà, của mẹ; hiện diện trong nghi lễ vòng đời, trong lễ mừng lúa mới, lễ hội mùa xuân; và cả trong những nghi thức tiễn đưa người thân. Chính vì vậy, dân ca, dân vũ vừa là ngôn ngữ tinh thần, vừa là sợi dây kết nối cộng đồng, bồi đắp tình đoàn kết và khơi dậy niềm tự hào dân tộc.

z7375396431293_57e11f1d5c3d0120ac6f90528dedcfb6.jpg
Người Hà Nhì uyển chuyển trong các điệu múa - Ảnh: Tuấn Minh

Khu vực miền núi phía Bắc có hơn 30 dân tộc cùng sinh sống, đồng bào DTTS chiếm trên 65% dân số toàn vùng, chính vì thế kho tàng dân ca, dân vũ đặc biệt phong phú. Về nội dung có thể thấy các nhóm chính như: dân ca nghi lễ (cầu cúng thần linh trong các nghi lễ vòng đời), dân ca sinh hoạt (giao duyên, đồng dao, hát ru, hát gia đình, than thân…), dân ca ca ngợi cảnh đẹp – tình yêu quê hương và dân ca lao động (gieo trồng, gặt hái, phát nương làm rẫy…). Chính sự phong phú ấy làm nên giá trị độc đáo của di sản, nhưng cũng đặt ra một thực tế đáng lo: di sản đang bị đe dọa, có nguy cơ mai một và thất truyền.

Sự giao thoa, hội nhập văn hóa diễn ra nhanh khiến dân ca, dân vũ ở nhiều nơi bị lấn át bởi các loại hình giải trí hiện đại; không gian sinh hoạt cộng đồng thu hẹp; người trẻ ít có cơ hội và động lực học bài bản. Đáng lo hơn, nhiều nghệ nhân cao tuổi, là những “báu vật sống” nắm giữ vốn tri thức bản địa lần lượt qua đời khi chưa kịp truyền dạy đầy đủ. Một số làn điệu dân ca của các dân tộc ít người như Si La, Mảng, La Hủ… đứng trước nguy cơ thất truyền. Khi người biết hát, biết múa, biết nhạc cụ không còn, di sản không chỉ mất một “tiết mục”, mà mất luôn mã văn hóa để cộng đồng đọc được chính mình.

z7376366985383_39e0596a82d104cc8b015a2c94f9b9e6.jpg
Các cô gái Mông biểu diễn điệu múa đến với du khách - Ảnh: Tuấn Minh

Trong bối cảnh đó, bảo tồn phải chuyển từ tư duy “ghi chép – lưu trữ” sang “giữ di sản trong đời sống”, đó là có người thực hành, có không gian, có cơ chế truyền nối.

Trước nguy cơ mai một nhanh chóng, nhiều đề tài, dự án sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và truyền dạy dân ca, dân vũ đã được triển khai. Đáng chú ý, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 3404/QĐ-BVHTTDL ngày 22-12-2021, phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2021–2030”. Định hướng của Đề án cho thấy một cách tiếp cận thực tế: bảo tồn không chỉ nhằm gìn giữ nguyên bản, mà còn gắn kết với phát triển du lịch, để di sản trở thành nguồn lực kinh tế – xã hội, qua đó tạo thêm động lực duy trì lâu dài.

Ở địa phương, nhiều nơi chủ động triển khai liên hoan tiếng hát dân ca, hội thi, xây dựng câu lạc bộ, mở lớp truyền dạy… Những hoạt động này không chỉ tạo không khí sinh hoạt văn hóa sôi nổi mà còn khơi dậy tình yêu và niềm say mê trong cộng đồng. Đặc biệt, khi dân ca, dân vũ được đưa vào phục vụ du lịch cộng đồng theo cách tôn trọng bản sắc và vai trò chủ thể của người dân, đây có thể trở thành một phương thức bảo tồn tương đối bền vững: du lịch tạo nguồn lực, còn văn hóa tạo khác biệt điểm đến.

z7376358521305_59b12c93f0ca455ed2152c08a6afd5e3.jpg
Cô gái Mường uyển chuyển trong từng tiếng nhạc, điệu múa - Ảnh: Tuấn Minh

Một tín hiệu tích cực đang rõ dần là sự ra đời và phát triển của nhiều câu lạc bộ dân ca, dân vũ trong cộng đồng. Các mô hình hoạt động hiệu quả thường có điểm chung: vừa bảo tồn di sản, vừa mở rộng không gian thực hành thông qua giao lưu, liên hoan, truyền dạy cho thế hệ trẻ; đồng thời nhận được sự hỗ trợ về kinh phí và điều kiện tổ chức. Điển hình như ở Cao Bằng hiện nay, toàn tỉnh có hơn 800 đội văn nghệ quần chúng, hoạt động thường xuyên, hiệu quả; Lạng Sơn có khoảng hơn 200 CLB văn hóa dân gian; Lai Châu có rất nhiều đội, câu lạc bộ (CLB) văn nghệ quần chúng giữ gìn dân ca, dân vũ dân tộc thiểu số, với gần 1000 đội văn nghệ thôn bản… 

Thực tiễn cho thấy có nhiều mô hình CLB tiêu biểu theo từng tộc người và địa bàn: CLB dân ca Sán Dìu (Tam Đảo, Phú Thọ) với làn điệu Soọng cô, nổi bật ở cách gắn kết bảo tồn với phát triển du lịch, giới thiệu văn hóa đến du khách, góp phần tạo nguồn thu và giữ bản sắc; CLB Hát Then (Tày, Nùng) tại nhiều địa phương, góp phần gìn giữ và lan tỏa giá trị của loại hình di sản đã được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; CLB Xòe Thái ở các tỉnh Tây Bắc như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên… hoạt động sôi nổi, vừa là sinh hoạt cộng đồng, vừa phục vụ các sự kiện văn hóa – du lịch; CLB múa khèn H’Mông, nơi khèn không chỉ là nhạc cụ mà còn là “ngôn ngữ chuyển động”, giữ nhịp văn hóa trong lễ hội và đời sống…

Điều làm nên hiệu quả của các câu lạc bộ thường đến từ bốn yếu tố: sự quan tâm của chính quyền địa phương (hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện tổ chức), sức mạnh cộng đồng (tập hợp người dân yêu văn hóa, truyền từ già đến trẻ), khả năng phát huy giá trị (tham gia lễ hội, sự kiện, du lịch), và đa dạng hóa hình thức bảo tồn (sưu tầm – phục dựng – mở lớp – liên hoan – giao lưu). Khi bốn yếu tố này gặp nhau, câu lạc bộ không còn là phong trào ngắn hạn, mà trở thành “thiết chế mềm” duy trì di sản trong đời sống thường nhật.

z7375396433851_a0906a5abb7633fdc8232f5e36e06e69.jpg
Du khách hòa với điệu Xòe với các đồng bào dân tộc - Ảnh: Tuấn Minh

Bên cạnh đó, dân ca dân vũ đã phát huy vai trò quan trọng khi gắn với phát triển du lịch, tạo nên sức hút đặc trưng, thu hút du khách, biến di sản văn hóa thành nguồn lực kinh tế, giúp nhiều địa phương giữ gìn bản sắc và phát triển bền vững. Các hoạt động như lễ hội, liên hoan tiếng hát dân ca, câu lạc bộ dân vũ không chỉ bảo tồn mà còn làm sống động văn hóa, mang lại trải nghiệm độc đáo cho du khách. Lợi ích của việc gắn kết dân ca, dân vũ với du lịch cho thấy, dân ca dân vũ địa phương là "đặc sản" văn hóa độc đáo, giúp các điểm du lịch nổi bật và thu hút hơn so với nơi khác. Du khách có cơ hội tiếp xúc, tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa bản địa một cách chân thực, sâu sắc, thay vì chỉ tham quan đơn thuần. Việc có nguồn thu từ du lịch giúp các cộng đồng có động lực để giữ gìn, truyền dạy và phát triển các làn điệu, điệu múa truyền thống; đồng thời, tạo ra việc làm, thu nhập cho nghệ nhân, người dân địa phương, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội.

Từ thực tiễn cho thấy, dân ca dân vũ khi được gắn với du lịch sẽ mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác bảo tồn. Khi những câu lạc bộ ở cơ sở hoạt động đều đặn, khi di sản văn hóa được gắn kết với du lịch, tạo sinh kế cho cộng đồng, từ đó khuyến khích thế hệ trẻ được học và được tự hào về làn điệu của dân tộc mình, khi nghệ nhân được tôn vinh và có điều kiện truyền dạy, thì các làn điệu dân ca, dân vũ sẽ được bảo tồn, phát huy giá trị theo hướng bền vững, và trở thành di sản “được sống” – để hồn núi rừng tiếp tục ngân vang trong đời sống hôm nay.