Phim Bao giờ cho đến tháng 10_.jpg
Phim Bao giờ cho đến tháng Mười

1. Một số vấn đề từ tổng quan nhân vật phim truyện điện ảnh sau 1975

Nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình

Với nhiều nhân vật điển hình được xây dựng tiêu biểu cho phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong nhiều phim, các tác giả đã tạo nên hoàn cảnh, hành động và tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ tính cách. Mỗi nhân vật điển hình (phải là nhân vật chính của phim) thường tiêu biểu cho một lớp người nhất định: tiêu biểu cán bộ đảng viên, công nhân, nông dân, người lính, thanh niên, phụ nữ, trí thức, người lao động… Mỗi nhân vật điển hình còn tiêu biểu cho các đề tài như: đề tài lãnh tụ và lịch sử cách mạng (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Thầu Chín… trong các phim về lãnh tụ Hồ Chí Minh; anh hùng Núp - Đất nước đứng lên, 1994; Võ Thị Sáu - Người con gái đất đỏ, 1995; Mừng - Tuổi thơ dữ dội, 1989…); đề tài chiến tranh (Thai và Lực - Cỏ lau, 1993; Hai Hùng - Người đi tìm dĩ vãng, 1994…); đề tài hậu chiến (hai chị em gái từng là nạn nhân chiến tranh - Chuyện tình bên dòng sông, 1991; Na - Người yêu đi lấy chồng, 1996; Cảnh, Thoa, Tâm - Đời cát, 1999…); đề tài người lính trở về sau chiến tranh (Sơn, Vân - Chuyến xe bão táp, 1977; Tiến, Hiền - Những người đã gặp, 1979…); đề tài nông thôn (Nhân, Ái - Ngày lễ thánh, 1976; những người dân quê - Khách ở quê ra, 1994; Nhâm, Ngữ, Quyên - Thương nhớ đồng quê, 1995; Hai Muối và con gái - Hai Muối, 2004); đề tài gia đình và xã hội (gia đình ông Sĩ - Xa và gần, 1983; gia đình ông Sang - Bố già, 2021; gia đình bà Nữ - Nhà bà Nữ, 2023; gia đình ông Đạo - Làm giàu với ma, đều 2004…); đề tài thanh thiếu niên (Chom và Sa - Chom và Sa, 1978; những đứa trẻ - Mẹ vắng nhà, 1979; cô giáo và học sinh - Nơi bình yên chim hót, 1986…); đề tài về cuộc sống thành thị (bác sĩ Quang - Vị đắng tình yêu, 1991; nhạc sĩ Trần Việt - Lương tâm bé bỏng, 1992; cô giáo Loan - Trở về, 1994; bà Dương - Cái giá của hạnh phúc, 2024; Kiều, Quang, Tú - Nụ hôn bạc tỷ, 2024…); đề tài đương đại (Bường, Thuyết, Ngọc - Những người thợ xẻ, 1998; Tành, Giao - Thung lũng hoang vắng, 2000; Trọng, Thủy - Vua bãi rác, 2002; Hoa, Hạnh - Gái nhảy, 2003…)…

Nếu như trước 1986, đa phần nhân vật phim truyện được xây dựng theo phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa thì vào giai đoạn sau, theo sự phát triển của xã hội, xuất hiện ngày càng nhiều nhân vật được xây dựng theo sự mở rộng của phương pháp hiện thực (gồm hiện thực phê phán và hiện thực thơ mộng). Có nhiều phim cho thấy sự tiên phong, trách nhiệm công dân trong chủ ý xây dựng hình tượng tác phẩm thông qua hệ thống nhân vật, hướng về tư duy tiên tiến của thời đại là hòa bình, bình đẳng, bác ái và biểu hiện giá trị tiến bộ về tư tưởng, nhân văn trong loạt phim sản xuất vào thời kỳ đất nước đổi mới (các phim về lãnh tụ hay các phim về nhân vật trung tâm Ngọn đèn trong mơ, Vị đắng tình yêu, Bến không chồng, Bao giờ cho đến tháng Mười…). Theo nguyên tắc nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, trong nhiều phim, hệ thống nhân vật điển hình đã được xây dựng như những hình tượng nghệ thuật khi đã hội đủ nguyên tắc, yếu tố, tiêu chí như điển hình và cá biệt, khách quan hiện thực và chủ quan, duy lý và duy cảm…(Đừng đốt, Nhìn ra biển cả, Dòng máu anh hùng, Thầu Chín ở Xiêm, Nhà tiên tri, Mùi cỏ cháy, Long thành cầm giả ca, Người trở về...).

Nhân vật đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt

Những nam nhân vật đặc biệt trong Không có đường chân trời (1989), trải qua bi kịch với những tình huống tưởng như cá biệt (hoàn cảnh đặc biệt) nhưng có sức hình tượng hóa cao. Lần đầu trên màn ảnh có bức tranh sắc nét về cuộc sống, hoàn cảnh dữ dội ở Trường Sơn, khi người lính không phải hy sinh oanh liệt trước mũi súng của quân thù mà người bị cây đè trong lúc phát rừng, bị hổ vồ mất xác hay qua đời sau cơn sốt ác tính. Những nam nhân vật trong hoàn cảnh đặc biệt ấy gồm một nhóm chiến sĩ được giao nhiệm vụ tăng gia, tích trữ lương thực, sống trong hang giữa rừng thiêng nước độc, trông chờ mỏi mắt mà quân ta vẫn bặt vô âm tín.

Pha trộn hài hòa giữa điển hình và đặc biệt, trong Lấy chồng người ta (2012), Linh, Khánh và Lụa đều là những nữ nhân vật đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt của một mối tình tay ba. Lụa điển hình ở chỗ từ yêu chồng mà ngủ với bạn chồng để có con do hy sinh vì hạnh phúc gia đình, nhưng đặc biệt ở chỗ từ tình dục vô cảm đến giấu chồng quan hệ với Linh, quyết định cùng chồng trả con cho Linh. Là “người thứ ba là thừa”, Linh điển hình khi vô tình lẫn lộn giữa tình yêu và tình dục, bất chấp tất cả để đòi quyền làm cha, là thần tài mong đem lại may mắn cho mình, nhưng lại đặc biệt khi là ác mộng của người khác. Hơn nữa, nhân vật Khánh có tính điển hình, khi biết vợ có con với bạn, bẽ bàng mà vẫn cảm thông; lại là mẫu đàn ông nhu nhược, chịu đựng, nhưng lại đặc biệt ở cách phản kháng không giống ai với số phận… Có nét tương đồng như nữ nhân vật Erika của The piano teacher (Giáo viên piano, đạo diễn M. Haneke, Pháp, 1911), tuy hoàn cảnh và tính cách chưa thật sự đặc biệt, tiêu biểu cho một loại người trong xã hội, hệ thống nhân vật trong phim này được xây dựng theo kết cấu “3 tồn tại đồng thời trong 1”, hàm chứa và đã truyền đạt được tư tưởng tác giả và đạt hiệu quả thẩm mỹ.

Sự đổi mới trong xây dựng nhân vật truyền thống

Kế thừa và đổi mới các thủ pháp nghệ thuật trong giai đoạn trước, trong giai đoạn từ 2002 - 2020 đã có thay đổi trong xây dựng nhân vật truyền thống. Không chỉ các nhà làm phim thế hệ trước tiếp tục xây dựng các nhân vật thuộc đề tài chiến tranh và hậu chiến, những nhà làm phim trẻ cũng tìm thấy ở đây những chất liệu tốt cho sáng tác; khi đã xây dựng được các nhân vật với những đặc trưng, mặc định mang tính truyền thống, bộc lộ tính cách bằng/ thông qua tư tưởng, hành động, ngôn ngữ… Trong nhiều phim truyện với việc khai thác khá hiệu quả thế mạnh ở ngôn ngữ hình ảnh trực quan, nhiều nhà làm phim đã đổi mới khi xây dựng nên những hình tượng điển hình, có sự phát triển đáng kể trong xây dựng nhân vật, vừa bảo đảm được tính chân thực và sinh động trên cơ sở kịch bản giàu chất văn học, vừa kết hợp hiệu quả ngôn ngữ loại hình (Đừng đốt, Mùa len trâu, Trăng nơi đáy giếng, Mùi cỏ cháy, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Trúng số, Tro tàn rực rỡ...). Đồng thời, nhân vật về đề tài truyền thống của các đạo diễn trẻ cũng có khác biệt (nhờ cái nhìn khách quan, sâu sắc nên đời hơn, người hơn, chân thực và sống động hơn). Trong Trung úy, có sự mạnh dạn đổi mới (đôi khi được xem như sự phá cách) trong việc xây dựng nhân vật truyền thống (người chiến sĩ) bằng, đa dạng và riêng tư hơn. 

Dù việc xây dựng nhân vật truyền thống có sự thay đổi, khán giả yêu thích điện ảnh vẫn được thưởng thức những bộ phim truyền được/ gửi gắm cảm hứng từ hai cuộc kháng chiến giải phóng của dân tộc với sự đổi mới tích cực và hiệu quả, khi chứng kiến hình ảnh của những nhân vật truyền thống với tình yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, tuy nhiên các nhân vật có đời sống tâm lý, có khát khao cá nhân, riêng tư và sâu sắc hơn. Hơn nữa, ở ngay trong một con người, “đời sống xã hội và cá nhân rõ ràng, sinh động thay vì chỉ có đời sống xã hội như trước đây, tạo nên những góc nhìn mới, khác với những nhân vật trước kia; tâm lý được phát triển đúng quy luật mà không bị một chiều” (1).

Nhiều phim xây dựng nhân vật truyền thống vẫn tiếp tục khám phá quá khứ một cách đa chiều, bên cạnh cái tốt, sự lý tưởng, còn phản ánh tâm tư, trăn trở, trắc trở… của đời thường, như tình yêu (Sinh mệnh, Trung úy); đề cập cái đáng phê phán, thậm chí đáng lên án, sự hèn nhát, tráo trở (Cô gái trên sông, Chớp mắt cùng số phận); nêu vẻ đẹp, tình người trong và sau chiến tranh (Đời cát, Đừng đốt); hoặc hình tượng người lính được phản ánh chân thực, với những thay đổi nhất định trong tiếp cận, như sự hồn nhiên, sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ, sự hy sinh vì cái chung (Người trở về, Mùi cỏ cháy); những phẩm chất tốt đẹp như một hằng số (Huyền thoại bất tử, Những người viết huyền thoại…)…

Nhân vật phản diện với cách xây dựng mới

Trong giai đoạn từ 1975 - 1988, nhân vật trong phim về chiến tranh có nhiều thay đổi và đa dạng hơn, khi nhiều nhà làm phim không có xu hướng xây dựng nhân vật mang tính đại diện và cũng không câu nệ nhân vật chính phải là nhân vật chính diện hay phản diện, thuộc thành phần cơ bản hay không (Nguyệt - Cô gái trên sông, 1987; Thủy - Tướng về hưu, 1988…). Đa phần nhân vật như được lấy ra từ chính cuộc sống, phần lớn là những con người bình thường; mỗi nhân vật tạo được ý nghĩa và sức khái quát riêng. 

Trong nhiều phim, các tác giả xây dựng nhiều loại nhân vật, cho thấy trong cuộc chiến đấu chống xâm lược mỗi con người là một số phận và mỗi số phận đều trải qua thử thách ngặt nghèo của sự chịu đựng, hy sinh, mất mát; vì thế muốn thắng kẻ địch trước hết phải thắng chính mình (Út Miên, Bảy Hạnh - Tình đất Củ Chi, 1978). Để tìm tòi những cách thể hiện mới, các tác giả xây dựng nhân vật phản diện là nhân vật chính của tác phẩm; không chỉ mô tả hành động dã man, tàn ác mà còn thể hiện những suy nghĩ thâm độc, tư tưởng phản động, triết lý suy đồi của các nhân vật, qua đó lột tả được bản chất của kẻ địch, nêu bật được sự thất bại của kẻ địch từ bên trong (thiếu tá Vĩnh Quán - Tự thú trước bình minh, 1979; trung úy ngụy - Khoảnh khắc im lặng của chiến tranh, 1983; trung tá Bảo - Trừng phạt, 1984…). Không thể hiện nhân vật phía ta là nhân vật chính diện cũng không trực tiếp mô tả thắng lợi của ta, người xem vẫn thấy được thắng lợi, cảm nhận được chính nghĩa và tinh thần nhân đạo của cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân ta nên cách khai thác, xây dựng nhân vật như vậy là một nét độc đáo của phim truyện trong giai đoạn sau 1975 (2). Tương tự, trong Những đứa con của làng (2014), nhân vật chính Đông thuộc loại nhân vật phản diện dễ mến (3). Nhờ xác định rõ tiêu chí của loại nhân vật này, nhà làm phim đã xây dựng tính cách tuy giống với tính cách của nhân vật chính (có cùng đặc điểm, mục đích, vật cản…), mang tính hai mặt, nhưng không một chiều, đơn giản, vì có cả yếu tố của nhân vật chính diện và phản diện. Hệ thống các nhân vật ấy đã góp phần giúp người xem đánh giá và lý giải những vấn đề của hiện tại, hiểu rõ hơn hiện thực xã hội được mở ra sau chiến tranh cũng như các nhân vật được thể hiện là gạch nối trong các phim đề tài đương đại.

Nhân vật theo quy ước sáng tác của đề tài, chủ đề, sự phản ánh hiện thực

Trong giai đoạn 1975 - 1986, nhiều nhà làm phim tập trung thể hiện chiến tranh qua góc nhìn các nhân vật phản diện; đánh giá phẩm chất cán bộ cách mạng; khai thác những khía cạnh mới khi thể hiện sự đau thương và mất mát trong chiến tranh (Địa chỉ để lại, Tình đất Củ Chi, Câu chuyện làng dừa, Mẹ vắng nhà, Bình minh xôn xao, Bao giờ cho đến tháng Mười...). Trong đề tài lịch sử cách mạng, hệ thống nhân vật cũng được khai thác, xây dựng ở các góc độ khác nhau (Nhu - Sao tháng Tám, 1976; O Thùy - Ngày ấy bên sông Lam, 1980…) và với các hiệu quả khác nhau. Trong nhiều phim thể loại tâm lý - xã hội (thể loại phim phổ biến), các nhân vật được xem như đại diện cho điện ảnh thời kỳ hậu chiến (Ngày lễ thánh, Chuyến xe bão táp, Những người đã gặp, Về nơi gió cát, Xa và gần…). 

Với chủ đề phim trở nên rất đa dạng, không chỉ là tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội mà còn là lối sống, đạo đức, tình yêu chung thủy, sự ngay thẳng, lòng vị tha… trong đó chủ đề “tội ác và trừng phạt” (Hồi chuông màu da cam, Trừng phạt…) đã cho thấy sự mở rộng loại nhân vật trên màn ảnh và sự tìm tòi những cách thể hiện mới cũng như nét độc đáo của phim truyện giai đoạn sau chiến tranh. Nhân vật của phim không còn đóng khung trong chính diện và phản diện mà nhân vật chính có thể là bất cứ loại người nào có trong xã hội. Đồng thời, tương tự như giai đoạn từ 1959 - 1975, phim truyện điện ảnh sau 1975 đã tạo nên một bộ sưu tập nhân vật mà thời gian không thể làm phai mờ trong trí nhớ khán giả.

Điểm chung của nhiều tác giả, tác phẩm thời kỳ này là sự thống nhất không chỉ trong nhận thức cách phản ánh hiện thực mà còn cách xây dựng hình tượng nhân vật theo định hướng chung, có nhiều góc nhìn mới và có sự phá cách nhất định. Những nhân vật trong các sáng tác điện ảnh đầu tiên trong thời kỳ đổi mới gây khá nhiều tranh luận bởi cách phát hiện, thể hiện hiện thực (trong đó có mặt trái, tính tiêu cực…) và thông qua các nhân vật để phản ánh các vấn đề xã hội táo bạo, gai góc, mới mẻ so với trước đó (Tướng về hưu, Cô gái trên sông, Gánh xiếc rong, Lưới trời...), với phong cách phim tác giả kết hợp được chất trí tuệ và cảm xúc đa chiều trong thể hiện, xây dựng được hệ thống các nhân vật tiêu biểu, đa dạng, góc cạnh; tạo ấn tượng sâu sắc và có sức lan tỏa… đã đưa việc xây dựng nhân vật phim truyện điện ảnh đạt được chất lượng mới.

Cũng trong giai đoạn từ 1986-2002, những nhân vật nói trên đã được thể hiện trong nhiều phim truyện (Tướng về hưu, Cánh đồng hoang, Đời cát, Mê thảo thời vang bóng), với xu hướng phản ánh hiện thực chân thực, gai góc và quyết liệt, cùng sự thông thoáng trong định hướng sáng tác và quản lý sáng tác điện ảnh. Thông qua những biên niên sử điện ảnh, với tính tư tưởng, triết lý, khéo léo và mạnh mẽ thể hiện tiếng nói cá nhân, thể hiện suy tư về số phận con người và đất nước, nhiều nhân vật trong phim một số đạo diễn hàng đầu đã thể hiện tư tưởng qua các cấp độ nhân vật Thị xã trong tầm tay, Cô gái trên sông, Mùa ổi)...

Việc phản ánh hiện thực khá độc đáo của phim truyện “từ sau chiến tranh nhìn lại” cho thấy những vấn đề của các nhân vật trung tâm gắn bó chặt chẽ và có nguồn gốc sâu xa từ trong chiến tranh, từ những vấn đề xã hội (Mối tình đầu, Bãi biển đời người, Tội lỗi cuối cùng), đời sống tình cảm, hạnh phúc của cá nhân con người (Về nơi gió cát, Cây xương rồng trên cát…) tới vấn đề lương tâm và đạo đức như (Cô gái trên sông)… Những nhân vật trong các phim ấy và nhiều phim khác giúp người xem cảm nhận được cái nhìn mang tính lịch sử và biện chứng; giúp đánh giá và lý giải những vấn đề của hiện tại, hiểu rõ hơn hiện thực xã hội bộn bề, nhiều góc cạnh được mở ra sau chiến tranh. Việc thể hiện, gửi gắm chủ đề ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tái hiện quá khứ trước cách mạng được thể hiện thông qua các nhân vật truyền thống và trung tâm trong nhiều phim (Địa chỉ để lại, Tình đất Củ Chi, Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang, Mùa nước nổi, Hòn đất, Nhiệm vụ hoa hồng, Như thế là tội ác, Lê Thị Hồng Gấm…); được xây dựng bằng hình thức dung dị, gần gũi với cuộc sống và chiến đấu, có nhiều chi tiết vừa độc đáo vừa chân thực; đa phần nhân vật đều là những người bình thường, phổ biến trong cuộc đấu tranh được thể hiện khá sâu sắc tính cách, tâm lý, thế giới nội tâm…

Nhân vật theo quy ước sáng tạo và phù hợp với thể loại phim

Trong nhiều giai đoạn sau 1975, trong các thể loại khác nhau được tập trung khai thác nhiều hơn như hài (Dịch cười, Thị trấn yên tĩnh, Thằng Bờm, Long Ruồi, Để mai tính, Hello cô Ba…); hành động (Dòng máu anh hùng, Lửa Phật, Hai Phượng…); hình sự, tình báo (Cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn, X-30 phá lưới, Ván bài lật ngửa…), các nhân vật trở nên đa dạng về lứa tuổi, giới tính, trình độ, đa tính cách, phong phú về điểm nhìn, hàm chứa tư tưởng của tác giả, bộc lộ tính cách phù hợp với từng loại nhân vật, thời điểm xã hội nhân vật sống, với câu truyện được kể, chủ đề được truyền tải, hiện thực xã hội được phản ánh, đồng thời phù hợp với các quy ước sáng tạo của các thể loại phim…

Với thể loại phim ca nhạc, tình cảm - lãng mạn, Em muốn làm người nổi tiếng (2007), nhân vật chính là ba cô gái trẻ, bạn thân của nhau và vừa tốt nghiệp trường nhạc, dự định thành lập ban nhạc riêng và mỗi người trong số họ đều sở hữu những khát khao mãnh liệt muốn trở thành “ngôi sao” trên sân khấu ca nhạc. Tương tự là cách xây dựng nhân vật phù hợp với dàn dựng các màn hoạt náo, vui nhộn, hài hước trong thể loại ca nhạc (Những nụ hôn rực rỡ, 2010) và thể loại ca nhạc, hài xen lẫn học đường và tâm lý xã hội (Tháng năm rực rỡ, 2018). Kiểu phối hợp cặp đôi nhân vật Đông - Bưởi phim Những đứa con của làng nói trên (một cặp nhân vật hoàn toàn đối lập) thường hay được sử dụng trong các phim hài, phim phiêu lưu - lãng mạn - tình cảm. 

So với giai đoạn trước, trong giai đoạn 2002-2020, các nhà làm phim có nhiều đổi mới, tìm tòi sáng tạo trong xây dựng nhân vật không chỉ phù hợp với quy ước mà còn đan xen, lưỡng dung thể loại, như tình cảm - lãng mạn (Nụ hôn thần chết, Để mai tính, Bạn gái tôi là sếp, Em chưa 18, Chuyện tình xa xứ, Công chúa teen và ngũ hổ tướng, Dành cho tháng 6, Sài Gòn anh yêu em, 12 chòm sao: Vẽ đường cho yêu chạy…); tâm lý xã hội (Hotboy nổi loạn, Cánh đồng bất tận, Đảo của dân ngụ cư, Chuyện tình xa xứ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Quyên, Cha cõng con…); kinh dị (Ngủ với hồn ma, Chung cư ma, Bệnh viện ma, Lời nguyền huyết ngải, Khi yêu đừng quay đầu lại, Người bất tử, Lật mặt: Nhà có khách…) và nhất là thể loại phim tâm lý xã hội - hành động - hài - lãng mạn với nhiều thủ pháp nghệ thuật và đạt được hiệu quả nhất định về nhiều phương diện.

Mở rộng cách xây dựng nhân vật trung tâm với những mẫu hình nhân vật khác nhau

 Phương pháp xây dựng nhân vật được mở rộng nói trên đã tạo tiền đề cho tự do sáng tạo trong chọn lựa nhân vật, cách kể chuyện; chú trọng khai thác chiều sâu, tạo nên những cốt truyện đa tuyến với nhiều hình tượng nhân vật nổi bật; tạo nên ý nghĩa nhân văn khá sâu sắc, cổ vũ cho cái thiện, cho ý chí đấu tranh bảo vệ tiến bộ xã hội; đồng thời khơi dậy những giá trị văn học và thẩm mỹ (Bao giờ cho đến tháng Mười, Tướng về hưu, Cánh đồng hoang, Đời cát, Chuyện của Pao, Thương nhớ đồng quê, Tro tàn rực rỡ…). 

Trong sự kết hợp mở rộng diện phản ánh với xây dựng nhân vật trung tâm, nhiều phim truyện không chỉ tự giới hạn trong phạm vi các sự kiện, vấn đề, các mối liên hệ xã hội lớn lao đã chạm tới cái thẳm sâu trong thế giới tâm tưởng, trong bản thể, trong mối quan hệ chằng chịt giữa người với người, sự vượt qua số phận, tình người… (Mùa len trâu, Cánh đồng bất tận, Sống trong sợ hãi, Lấy chồng người ta, Trúng số, sau này là Tro tàn rực rỡ, Mai, Hai Muối, Làm giàu với ma).

Trong phim truyện điện ảnh giai đoạn sau 1975, đặc biệt cho thấy sự đa dạng trong xây dựng mẫu hình nhân vật, từ thiếu niên, học trò (Dành cho tháng 6, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh) đến nghệ sĩ - người mẫu (Thần tượng, Scandal: Bí mật thảm đỏ); từ đại gia (Đam mê, Nụ hôn bạc tỷ) tới người dân nghèo, thị dân (Lấy chồng người ta, Bố già, Nhà bà Nữ); từ nhân vật lịch sử (Thiên mệnh anh hùng) đến người chiến sĩ thời nay (Những người viết huyền thoại) và từ trai tài gái đẹp (Cô dâu đại chiến, Để mai tính) đến mẫu người bất hạnh (Hotboy nổi loạn)... Tuy nhiên, mẫu nhân vật gây ấn tượng sâu, có khả năng trở thành hình tượng tiêu biểu, tác động mạnh, để lại dấu ấn mang giá trị văn học và nhân sinh… (Tướng về hưu, Bao giờ cho đến tháng Mười, Trúng số, Lấy chồng người ta, Hai Phượng, Tro tàn rực rỡ…) không nhiều, chưa kể nhiều nhân vật còn chung chung, ít mang tính biểu tượng, chưa được chăm chút khai thác và thể hiện sâu sắc, chân thực. 

Như một thay đổi đáng kể trong thủ pháp, nhiều nhân vật trong nhiều phim truyện điện ảnh giai đoạn sau 1975, không phải là những “người tốt việc tốt” theo khuôn mẫu chính diện một chiều như lâu nay, mà là những con người bình dị trong xã hội và đặc biệt là những nhân vật thuộc giới trẻ. Theo đó, ở nhiều phim có sự pha trộn của cái hay, cái dở, sự khiếm khuyết, nổi loạn, ích kỷ, thù hận (được che đậy bằng vỏ bọc cho ra vẻ hoàn thiện của đạo đức, gia trưởng) cùng bản năng gốc trần trụi của giới tính (ông Võ, Sương trong Cánh đồng bất tận; ông, bố, mẹ, cô và cậu bé Bi trong Bi đừng sợ; nam nữ sinh viên trẻ vừa háo hức, vừa hoang mang trong khám phá tình dục ở Rừng Na Uy…). Những mẫu hình nhân vật còn mới mẻ, đa dạng bởi có đầy đủ, xen lẫn, hòa trộn, đối lập những điều tốt với xấu; cao thượng, nhân ái, chân thành với thấp hèn, bảo thủ, buông thả, lừa dối… 

Để xây dựng các nhân vật với mẫu hình khác nhau đó, theo nguyên lý sáng tác có nhân vật nghĩa là có mâu thuẫn, nhiều nhà làm phim đã áp dụng thủ pháp khai thác mâu thuẫn, diễn biến tâm lý để làm đậm tính cách nhân vật. Mâu thuẫn có thể tồn tại trong các mối quan hệ nhân vật, cũng có thể trong nội tại chính nhân vật đó và trong tác phẩm điện ảnh, chính mâu thuẫn đã thúc đẩy nhân vật hành động (đồng thời, có mâu thuẫn lớn và mâu thuẫn nhỏ, mâu thuẫn chính và mâu thuẫn phụ cùng trong một bộ phim). Không chỉ trong xây dựng nhân vật trung tâm, nhiều nhà làm phim đã lựa chọn, phát triển những mâu thuẫn như vậy để khi đặt nhân vật vào đó, khiến cốt truyện hiện ra một cách sắc nét, sinh động, mạch lạc và rõ ràng; nhân vật có sự phát triển tính cách logic và hợp lý.

Một số mô típ nhân vật nữ

Trong các giai đoạn phát triển, phim truyện điện ảnh Việt Nam có một số mô típ nhân vật nữ được xem là phù hợp với hơi thở của thời đại tương ứng. Khác với mẫu phụ nữ truyền thống “tam tòng tứ đức” thường mang tính minh họa và khá nhạt nhòa (trước 1945), hay mẫu nhân vật nữ của thời kỳ điện ảnh sau 1959 (Hoài - Chung một dòng sông, 1959; Mỵ - Vợ chồng A Phủ, 1961; bé Nga - Chim vành khuyên,1962; Tư Hậu - Tư Hậu; 1963; Vân - Nổi gió, 1966; Dịu - Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, 1972; Ngọc Hà - Em bé Hà Nội, 1974; Nết - Đến hẹn lại lên, 1974...) với điểm chung là hình tượng nhân vật nữ được khai thác ở khía cạnh xã hội với âm hưởng anh hùng ca; nhân vật phụ nữ thường kiên cường, bất khuất hòa vào tinh thần chung của dân tộc. Mẫu nhân vật nữ sau 1975 có điểm chung vẫn là nhân vật hoặc theo đúng tinh thần, phẩm chất người phụ nữ gia đình truyền thống (hiền hậu, bao dung, nhẫn nhịn - trong  thể loại phim cổ tích, tâm lý xã hội) hoặc là nạn nhân của những cuộc tình đổ vỡ, những nhiễu loạn, suy đồi của đạo đức xã hội trong bối cảnh văn hóa phương Đông vừa dung nạp vừa bị xâm lấn của văn hóa phương Tây (trong thể loại phim chuyển thể từ các tác phẩm văn học của Tự lực văn đoàn, phim tâm lý xã hội), với những góc khuất, tổn thương về tâm sinh lý của phụ nữ được bản thể hóa. 

Với phim truyện điện ảnh thời kỳ hậu chiến, những khía cạnh mang tính cá thể được quan tâm nhiều hơn (Duyên - Bao giờ cho đến tháng Mười, 1984; Thai - Cỏ lau, 1993; Thoa - Đời cát, 1999…), được xây dựng dày dặn hơn, có số phận, có chiều sâu với những góc khuất, những tổn thương trong tâm hồn cũng như thể xác từ cuộc chiến, điều khó có thể tìm thấy ở giai đoạn trước đó. Với kiểu nhân vật nữ của phim truyện điện ảnh Việt Nam đương đại, song hành với sự phát triển của xã hội, loại nhân vật nữ “nổi loạn” xuất hiện ngày một nhiều hơn trong một thời gian dài (Hoa, Hạnh, Ngọc - Gái nhảy, 2003; Linh San, May - Gái già lắm chiêu, 3 phần, từ 2016 - 2020; Thanh Mai, Thanh Loan, Như Ý - Cô Ba Sài Gòn, 2018; Mai, Ngọc - Chàng vợ của em, 2019…) đồng hành với hình ảnh người phụ nữ mới năng động, tài năng và tự chủ, tự quyết định cuộc đời mình, người của xã hội nhưng không xa rời được mái ấm gia đình. Trong khi đó, mô típ nhân vật nữ với nỗi đau thân phận như Dần - Áo lụa Hà Đông (2006), Trinh - Huyền thoại bất tử (2009) và Lụa - Lấy chồng người ta (2012), cho thấy nhà làm phim trung thành, nhất quán với một kiểu nhân vật trong sự nghiệp và muốn đi đến cùng với nhân vật nữ ấy trong loạt phim tác giả của mình.

 Xây dựng hệ thống các kiểu nhân vật

 Trong nhiều giai đoạn khác nhau sau 1975, phim truyện đã xây dựng được hệ thống các kiểu nhân vật, như kiểu nhân vật cặp đôi (Ngày lễ thánh, Vợ chồng anh Lực, Thời xa vắng, Chàng vợ của em…); kiểu nhân vật số phận (Bao giờ cho đến tháng mười, Đời cát, Người đàn bà mộng du, Sống trong sợ hãi…); kiểu nhân vật người hùng (Ngã ba Đồng Lộc, Đừng đốt, Những người viết huyền thoại…); kiểu nhân vật phức tạp (Scandal: Bí mật thảm đỏ; Chơi vơi; Bi, đừng sợ…); kiểu nhân vật vô danh (Xích lô; Đào, phở và piano…), kiểu nhân vật tha phương (Mùa len trâu, Quyên…); kiểu nhân vật cô đơn, bị lãng quên (Rừng lạnh, Người sót lại của rừng cười, Thung lũng hoang vắng…); kiểu nhân vật có diễn biến tâm lý gây hồi hộp (Mắt biếc, Em chưa 18)

Riêng trong giai đoạn từ 2016 đến nay, một phần nhờ hệ thống nhân vật, nhiều phim truyện có sức thu hút khán giả, với những phim vừa đạt doanh thu cao vừa được đánh giá khá tốt về chất lượng (Em chưa 18, Chàng vợ của em, Cua lại vợ bầu, Gái già lắm chiêu 2 và 3, Hai Phượng, Mắt biếc, Tiệc trăng máu); các phim nghệ thuật (Đừng đốt, Long thành cầm giả ca, Mùa len trâu…); các phim độc lập (Chơi vơi, Cánh đồng bất tận…); các phim kết hợp hài hòa các yếu tố nghệ thuật - thương mại - giải trí (Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Trúng số, Chàng vợ của em…). 

Nhân vật người lao động nghèo, nông dân, tiểu thị dân

Hệ thống nhân vật này thường được khai thác khá ấn tượng trong những câu chuyện xoay quanh những số phận con người gần gũi khán giả đại chúng; khai thác lối sống của những người lao động ở các tầng lớp xã hội; được cài cắm cùng các yếu tố kết nối xã hội có thể kể đến như gia đình, tình yêu tương đối tiêu biểu; có sự phát triển đáng kể trong cách kể chuyện trong đề tài gia đình và thể loại tâm lý xã hội, hài, lãng mạn. Đó là một cặp vợ chồng nghèo nhưng giàu lòng thương người, làm nghề ve chai nhưng cưu mang năm bé gái bị cha mẹ nhẫn tâm bỏ rơi, lao động cực nhọc để có tiền nuôi các con trở thành những cô gái xinh đẹp và tài năng, hiếu thảo, thương người (Nhà có năm nàng tiên, 2013); Long Ruồi (Long Ruồi, 2011) với sự phát triển tính cách từ “trai làng”, “chàng Tèo”, bình dân, “hai lúa” trở thành “đại gia” có sự mới mẻ, hòa trộn giữa “trai quê” và “trai phố”, giữa may mắn và khôn lỏi, giữa một Tèo “bán bánh xèo” chọc cười khán giả ngay từ đầu đến một Long Ruồi “đại gia” gây cười cho đến kết phim… 

Đó là những nhân vật với những tình huống dễ bắt gặp trong cuộc sống (Lật mặt 7, 2024), từ đó khơi gợi sự chia sẻ và đồng cảm. Đó là các thành viên trong Bố già, gia đình bà Nữ - Nhà bà Nữ; Hai Muối và con gái - Hai Muối; ông Đạo và Lanh - Làm giàu với ma... Điều đó cho thấy sự tiếp nối, kế thừa và đổi mới không chỉ trong các thủ pháp trong xây dựng hệ thống nhân vật người lao động nghèo, nông dân, tiểu thị dân qua nhiều phim kể từ sau 1975 (Làng Vũ Đại ngày ấy, Vợ chồng Anh Lực, Ngày lễ thánh, Thương nhớ đồng quê, Những đứa con của làng, Cánh đồng bất tận, Tro tàn rực rỡ…).

Phim Trăng nơi đáy giếng.jpg
Phim Trăng nơi đáy giếng

2. Một số gợi mở

Kế thừa và phát huy sự thành công trong việc xây dựng các nhân vật có sức lan tỏa và sức sống lâu bền của phim truyện điện ảnh sau 1975, để xây dựng được các nhân vật tiêu biểu, xứng tầm với sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi những tìm tòi, sáng tạo hiệu quả, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật đề tài truyền thống, lãnh tụ, lịch sử, chiến tranh; nhất là các nhân vật tiêu biểu, điển hình, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả, đại diện cho con người Việt Nam trên nhiều lĩnh vực trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Để tạo nên các nhân vật có sức sống lâu bền, có sức lan tỏa, mang tầm thời đại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như tầm tư tưởng, tài năng, sự tự do sáng tạo, thế giới quan và nhân sinh quan nghệ sĩ, sự kết hợp của các thành phần làm phim, sự chọn lựa và xây dựng nhân vật từ tác phẩm chuyển thể, sự áp dụng các thủ pháp của nghệ thuật điện ảnh, những tìm tòi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật… Bên cạnh đó, các cấp quản lý không chỉ tạo điều kiện cho sáng tạo, mà cơ chế duyệt phim cũng cần hạn chế những bất cập, như một nhà văn từng “mong muốn các nhà quản lý phải cho những nhân vật là người ra người chứ không phải những nhân vật na ná người” (4), xét ở góc độ xây dựng nhân vật. 

Các diễn viên tài năng là sự tiếp nối thế hệ đáng ghi nhận của phim truyện điện ảnh sau 1975. Bởi khán giả nhớ đến bộ phim là nhớ đến nhân vật trong bộ phim đó qua diễn xuất tài tình của diễn viên; nhân vật hay là đất diễn tốt cho diễn viên và ngược lại; tài năng diễn xuất của diễn viên đã làm cho nhân vật có sức sống lâu bền trong lòng khán giả.

Bản sắc dân tộc của nhân vật trung tâm (căn cước dân tộc, dân tộc tính, sự thể hiện phẩm chất, tính cách, tâm hồn con người Việt Nam, nét độc đáo dân tộc; các đặc điểm dân tộc tính mang đặc tính của nhân vật thường đại diện cho một tầng lớp xã hội, cộng đồng, dân tộc nhưng mỗi thể lại có những sắc thái độc đáo, khác biệt hẳn với những đơn nguyên khác…) trong nhiều phim truyện từ sau 1975 đã bộc lộ rõ nét và đang được tìm cách phát huy, nâng lên tầm cao mới, khi tác giả quan tâm đúng mức hơn đến xây dựng tính dân tộc của nhân vật gắn với nội dung và hình thức tác phẩm. 

Những năm gần đây, khi xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, do những lý do khác nhau, nhiều nhà làm phim truyện điện ảnh không còn áp dụng phương pháp sáng tác Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, kinh nghiệm và giá trị nhất định của phương pháp này vẫn có tính thời sự trong xây dựng nhân vật trong tác phẩm phim truyện điện ảnh, với những nhân vật có nét cá tính độc đáo, có sức sống, sự lay động, sức truyền cảm để trở thành điển hình; khi nhà làm phim biết làm sâu sắc nội dung, khắc họa tâm hồn cùng tính cách nhân vật trong những hoàn cảnh điển hình. 

Thông qua hệ thống các nhân vật nữ phim truyện điện ảnh sau 1975, có thể thấy rõ những thay đổi trong xây dựng nhân vật phụ nữ ngày càng gần hơn với dòng chảy điện ảnh nữ quyền thế giới, khi họ dần trở thành nhân vật trung tâm, những người có vai trò quyết định xoay chuyển câu chuyện phim, mang tới những góc nhìn riêng về các vấn đề của đời sống xã hội nói chung và thế giới phụ nữ nói riêng. Hơn nữa, chính phụ nữ đã nói lên tiếng nói, khát vọng và sự tự tin, tự quyết của chính mình qua những bộ phim được thực hiện bởi các đạo diễn nữ, những người đang ngày càng nhiều hơn trong số các nhà làm phim truyện điện ảnh Việt Nam. Hệ thống nhân vật này đã có sự phong phú hơn khi gắn kết, tham chiếu với hệ thống nhân vật người lao động nghèo, nông dân, tiểu thị dân.

Hệ thống nhân vật người lao động nghèo, nông dân, tiểu thị dân những năm gần đây được nhiều nhà làm phim xây dựng, như một sự chuyển biến tích cực trong phản ánh hiện thực nói chung, mỹ học phim, thay đổi trong tiếp cận nhân vật và đáp ứng thị hiếu khán giả nói riêng. Điều đó góp phần mang đến sự kỳ vọng cho sự phát triển đa dạng, nhiều giọng điệu, sâu sắc hơn trong xây dựng nhân vật trung tâm của phim truyện điện ảnh. Nếu được xem như sự gạch nối của phim truyện điện ảnh sau 1975, khuynh hướng sáng tác này cần sự tổng kết bước đầu, với những đánh giá đầy đủ và khách quan.

Một trong các kinh nghiệm trong xây dựng nhân vật của phim truyện điện ảnh sau 1975 là để có phim hay, hấp dẫn và kinh điển, cần tạo nên nhân vật như yếu tố hạt nhân tạo giá trị nhiều mặt, về nguyên tắc là “chuyện kể có thể đơn giản, nhưng đời sống nhân vật thì phải phức tạp và có chiều sâu - trong đó tính cách, năng lực - đặc biệt mục đích hành động của nhân vật cũng như cách nhân vật tranh đoạt mục đích đó như thế nào” (5). Mặt khác, kinh nghiệm quý đó còn gợi ý, đối với nhân vật trong một số bộ phim đề tài lịch sử, lãnh tụ, chiến tranh cách mạng, bên cạnh các đặc điểm của nhân vật truyền thống và trung tâm, cần khắc họa phía khác của nhân vật một cách rõ nét, thể hiện được những góc sâu thẳm nhất trong tình cảm, suy nghĩ (“tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu”), cuộc sống cá nhân (sự cô đơn, sự thất vọng và thậm chí cả sự thất bại…). 

Để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khán giả, hệ thống nhân vật trong các đề tài chính và truyền thống, thể loại mang tính sở trường và được ưa thích (tâm lý xã hội hài, hành động, lãng mạn, phiêu lưu - giả tưởng, kinh dị, võ thuật…) cần được các nhà làm phim, nhất là các nhà làm phim tư nhân, tiếp tục khai thác, xây dựng một cách hiệu quả, góp phần vào việc tăng sức hấp dẫn (nhất là việc hội đủ các tiêu trí giá trị như tư tưởng, giải trí, nghệ thuật và thương mại) cho phim truyện điện ảnh Việt Nam trong giai đoạn mới. 

_______________

1. Nhiều tác giả, Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao, Nxb Chính trị quốc gia, 2014, tr.594.

2. Nhiều tác giả, Lịch sử điện ảnh Việt Nam, Cục Điện ảnh xuất bản, 2006, tr.164.

3. Xem thêm: Vũ Ngọc Thanh, Xây dựng nhân vật trong một số phim truyện điện ảnh Việt Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 424, tháng 10-2019.

4. Thảo Duyên, Nhân vật trong phim truyện Việt Nam: Mờ mờ nhân ảnh, cand.com.vn,  27-9-2006.

5. Trần Luân Kim, Điện ảnh Việt Nam trên chặng đường mới, Tạp chí Nghiên cứu Sân khấu - Điện ảnh, số 18-2017, tr.8.