
Đó là một trong rất nhiều góc nhìn xoay quanh nơi sống từng được mệnh danh là “thiên đường”, được các tác giả gửi vào trong cuốn sách Khu tập thể - Tìm lại giấc mơ thiên đường (Nxb Giáo dục Việt Nam), mới được ra mắt trong thời gian gần đây. Cuốn sách gồm 3 phần chính: Di sản lịch sử; Đô thị nhân văn và Giấc mơ thiên đường. Nhằm lan tỏa giá trị di sản của không gian sống ấy, buổi ra mắt sách tổ chức vào ngày 26/10 vừa qua, đã thu hút đông đảo sự quan tâm của bạn đọc. Trong đó có nhiều người đã từng sinh sống trong những khu tập thể, cũng có những người muốn đến để cảm nhận nhịp sống của khu tập thể.

Hình ảnh văn hóa làng trong lòng đô thị
Trong khi không ít quốc gia châu Âu đã quay lưng với dạng nhà tập thể. Bởi đằng sau đó là nỗi lo về sự “bình dân hóa” vẻ đẹp cổ kính của kiến trúc ở những quốc gia này. Vậy mà, bất ngờ, khu tập thể lại phổ biến rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam. Có thể sự thiếu nhà ở do chiến tranh liên miên, hoặc do ưa thích tập trung thành cụm, gợi cho số đông những người bỏ làng ra phố kiểu cư trú gần gũi như cộng đồng làng xã cộng đồng. Hà Nội xây tới 64 khu, Hải Phòng với 220 nhà tập thể (Số liệu được PGS, TS Nguyễn Hồng Thục, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Định cư và Con người đưa ra trong sách ). Nhiều khu tập thể vẫn còn tồn tại vững chãi cho đến ngày nay.
Tại buổi tọa đàm, nhà văn Nguyễn Trương Quý trích dẫn những trang trong bài viết của tác giả Dương Tất Thành. Theo đó, nói riêng ở thành phố Hà Nội, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, làn sóng di cư trở lại đây tăng nhanh chóng với nhiều thành phần khác nhau cả về nghề nghiệp, xuất thân và quê quán. Hiện tượng này đã mang theo những nếp sống của vùng nông thôn du nhập vào các khu nhà thành thị. Tại thời điểm những nhà tập thể được xây dựng rộng rãi, những đặc điểm của nông thôn tồn tại như trụ cột xen giữa nếp sống đô thị mới đang dần được hình thành.
Đặc trưng của văn hóa làng xã được chỉ ra qua tính kết nối cộng đồng tràn ngập tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm. Đặc tính này được thấy rõ trong những hoạt động thường nhật của cư dân. 2 nguyên nhân tồn tại yếu tố này tại các khu tập thể: nguồn gốc xuất thân của cư dân tại các khu nhà cùng khoảng thời gian sơ tán sinh sống tại nông thôn; và cấu trúc, điều kiện cở sở vật chất thực tế của các nhà tập thể khiến cho sự kết nôi này vô cùng vững chắc.
Với thiết kế của các khu tập thể, mọi tiện ích phải sử dụng chung, việc chờ đợi và xếp hàng đến lượt là chuyện vô cùng bình thường. Không có một lời kêu ca, phàn nàn nào mà thay vào đó là sự cảm thông và có đôi chút cam chịu” với những điều kiện thực tế đang có. Có những câu chuyện từng được nghe như việc các nhà không khóa cửa, trẻ con qua lại nhà nhau chơi đùa khi nghỉ hè, rồi những câu chuyện của riêng nhà này được kể và bàn tán giữa các tầng, các dãy nhà và các khu nhà. Sân chơi lớn ở giữa các dãy nhà là một không gian lí tưởng cho các hoạt động có tinh kết nối cao. Nơi đây thường được sử dụng làm không gian chung cho các dịp lễ Tết, đám cưới, đám ma, Trung thu,...

Sản xuất ngay tại nơi ở - vượt quá khó khăn sau chiến tranh
Trong bài viết của mình, tác giả Dương Tất Thành còn nêu ra một yếu tố khác gợi nhớ về văn hóa làng xã là sản xuất tự cung tự cấp trong chính các khu nhà này. Trong giai đoạn sau chiến tranh, mặt bằng chung xã hội đang gặp nhiều khó khăn, mà người dân lao động là những thành phần chịu ảnh hưởng trực tiếp. Thu nhập từ các công việc chính của các thành viên trong gia đình chỉ dừng ở mức đủ với điều kiện là một gia đình có 3-4 người gồm bố mẹ và con cái. Nếu áp mức thu nhập đó vào các gia đình có nhiều người hơn, nhiều thế hệ cùng sinh sống hơn thì chắc chắn không thể đảm bảo cuộc sống ở mức tối thiểu. Chính vì vậy, việc tự cung tự cấp các nhu yếu phẩm liên quan đến thực phẩm giúp các hộ gia đình bớt đi gánh nặng chi tiêu.
Nhiều nhà để cải thiện cuộc sống, chỉ nuôi từ 1-2 con gà trong một chiếc chuồng be bé để trên ban công, chủ yếu nhốt đêm, còn ngày đem thả dưới bãi cỏ. Hay tận dụng buồng tắm, nhà bếp thành chuồng lợn, chuồng gà. Từ đó mới có câu chuyện vui truyền tai nhau như: vừa đi toa-lét, vừa phải canh chừng gà mổ trên đầu; hay người tắm chung với lợn.
Ngoài ra, việc trồng rau là việc hầu như gia đình nào cũng làm. Thời gian đầu còn nhiều bãi đất trống, hầu hết các khoảnh đất xung quanh các dãy nhà tập thể đều được tận dụng để trồng các loại rau, phổ biến nhất là rau muống. Hình ảnh không khó có thể bắt gặp vào tầm chiều tối, khi cán bộ các cấp cũng như anh công nhân, chị cấp dưỡng tay xách xô, tay cầm cuốc đi trồng rau. Hầu như môi gia đình đều cố kiếm một mảnh đất nhỏ cho riêng mình, bất kể nằm xa khu ở.
Vì thế, PGS, TS Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam nêu: “Trái ngược với cái nhìn bên ngoài của những tòa nhà bê tông thô kệch và xù xì, cuộc sống của các cư dân trong khu tập thể mang màu sắc sinh động, linh hoạt và thấm đượm tình người”. Theo đó, nếu như thế hệ bố mẹ, ông bà cùng chia sẻ với xóm giềng một lối sống trong quãng thời gian khó khăn thời kì chiến tranh và bao cấp thì những đứa trẻ trở nên thân thiết hơn khi chúng cùng lớn lên với những trò chơi, sinh hoạt chung trên những bãi cỏ, sân chơi giữa các tòa nhà, trong các lớp học gần nhà.


“Thiên đường” một thời có thực sự lý tưởng?
Tạm chưa bàn tới vẻ ngoài chưa hoàn mỹ của khu tập thể, các diễn giả để ý sâu hơn về kiến trúc và phong cách sống trong ngôi nhà. Từ đây, nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội khác nhau về lịch sử và cuộc sống của người dân sẽ được hé mở. KTS, TS Lê Phước Anh, Trưởng Khoa Kiến trúc, Đô thị và Khoa học bền vững, Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật (ĐHQGHN) nhận định: “Sự khác biệt của khu tập thể xưa so với những tòa nhà hiện đại là dấu ấn về nhịp sống đương đại. Nơi ở đúng nghĩa phải là nơi giúp người dân để lại dấu ấn của họ. Không gian sống của mỗi khu tập thể xưa mang theo sự tham gia, kiến tạo của những người dân và thể hiện, phản ánh sâu sắc đời sống đô thị”.
PGS, TS Đinh Hồng Hải, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN) viết trong sách: Những dấu vết của cuộc sống hằng ngày, từ các dấu vết trên tường đến các vật dụng trong nhà, đều có thể là một phần kí ức của các thành viên trong gia đình. Ở các khu tập thể hiện nay, những dấu vết như vậy còn được cá nhân hóa ở mức độ cao với những “chuồng cọp” - thường là ban công tự tạo ra, để làm chỗ phơi quần áo, khu vệ sinh tự chế,… Tổng hòa những không gian “cơi nới”, “thò thụt” và “tự chế” được điển hình hóa thành các đặc trưng của khu tập thể ở nước ta. Bằng cách tối ưu hóa các tiện ích công cộng, không gian xanh và những mối quan hệ xã hội, các khu tập thể ở Việt Nam đã tạo dựng nên những đô thị nhân văn thực sự. Dẫu rằng, đây chưa phải là những nơi ở lí tưởng như mong ước, nhưng đó thực sự là nơi đáng sống.
Trên thực tế, một đô thị nhân văn phải đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, nó đòi hỏi các dự án xây dựng và quy hoạch đô thị phải tính đến tác động dài hạn và tiềm năng của chúng đối với cộng đòng và môi trường. Đô thị nhân văn cần phải đảm bảo cho mọi người, đặc biệt là những nhóm yếu thế, được tiếp cận đầy đủ đến các dịch vụ có bản như giáo dục, y tế, nhà ở an toàn và vệ sinh. Khu tập thể chính là nơi đã tạo nên được những điều kiện như vậy, phù hợp với thu nhập của người dân ở đây thuộc nhóm không cao.
Nhìn lại, ta cũng thấy, khu tập thể cũng có linh hồn riêng của nó. Ở trong đó mang cả cố tật của thị dân Việt và khả năng ứng biến vô song. Hình hài ấy đã lấy được sự ngưỡng mộ của những lữ khách tha hương từng chiêm ngưỡng nó. Một văn hóa thị dân Việt linh hoạt như nước, để thích ứng với các đổi thay thời cuộc của đất nước.
NAM SƠN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 626, tháng 11-2025