


Chiếc lư hương thứ nhất tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, cao 36cm, đường kính miệng 30,5cm. Lư hương này đã được giới thiệu trong một số ấn phẩm: Gốm Bát Tràng, thế kỷ XV- XIX, in năm 1995, trang 57; Cổ vật Việt Nam, in năm 2003, trang 286: 2000 năm gốm Việt Nam, in năm 2005, trang 224. Lư hương có cấu tạo 4 phần: miệng loe, cổ hình trụ ngắn, bụng phình kiểu tang trống đồng, chân choãi. Trang trí mặt trước và mặt sau đối xứng với nhiều loại hoa văn. Mỗi mặt trang trí đắp nổi theo bố cục đan xen các hoa văn: rồng, hạc, nghê, hổ phù, hoa sen, hoa cúc, bánh xe luân hồi, chữ khắc trong bông sen hình lá đề, băng văn chấm dải, băng răng cưa,… Ở khoảng trung tâm đắp nổi 5 hình phụ nữ theo phong cách phù điêu, tư thế ngồi chống 2 chân, 2 tay giơ ngang tai. Điều đặc biệt là 5 hình phụ nữ này thể hiện khỏa thân, các bộ phận ngực và bụng căng phình. Trên tay các vị cầm một vật hình tròn như vòng hào quang? 5 hình này được xếp 2 hình ở trên, 3 hình theo hàng ngang ở dưới. Trong đó, hình chính giữa như đặt trên chiếc ngai tay rồng, phía sau lưng là dải cao chạm mây, phía dưới là hàng lan can. Các lớp men phủ trên lư hương hòa trộn các loại men trắng xám, xanh lục và vàng nâu. Đây là những loại men chịu nhiệt cao khi nung tạo nên màu sắc sinh động của dòng “tam thái” Bát Tràng. Chiếc lư hương này bị sứt một số dải trang trí nhỏ đã được Bảo tàng nghiên cứu tu sửa phục hồi (ảnh 1, 2a, 2b).
Chiếc lư hương thứ hai ở sưu tập tư nhân Hải Phòng đã được giới thiệu trong sách Cổ vật Hải Phòng, in năm 2009, trang 285. Lư hương có cấu tạo tương tự như chiếc lư trên, hiện trạng còn khá nguyên. Điểm khác biệt là lư hương này có 2 quai tượng rồng đối xứng, mỗi bên quai tạo 2 cặp rồng áp đầu vào nhau, tạo thế cân đối trang nghiêm. Hình rồng phía dưới từ giáp chân lư vươn lên, hình rồng phía trên đuôi gắn với miệng lư, uốn mình, đầu quay xuống dưới. Trên mỗi đuôi rồng còn gắn một tượng nghê nhỏ. Điểm khác biệt nữa là phía trên đầu 2 hình phụ nữ hàng trên còn có 2 hình chim đậu, đầu quay chầu vào giữa (ảnh 3,3b).


Hai chiếc lư hương trên đây đều là sản phẩm của dòng gốm “tam thái” Bát Tràng, thế kỷ XVI - XVII. Các đề tài trang trí, các loại men cũng như kỹ thuật chế tác cho đến cốt gốm của 2 chiếc lư hương này đều thấy tương tự các sản phẩm gốm thờ khác, nhưng điều khác biệt nhất là 5 hình tượng phụ nữ khỏa thân thể hiện theo dạng phù điêu mà cho tới nay chưa có tác giả nào đề cập.
Đã nhiều năm nghiên cứu về trung tâm gốm cổ Bát Tràng, chúng tôi rất băn khoăn khi tìm tài liệu lý giải về đề tài này. Trong số các tài liệu khảo cổ học cho thấy những nét so sánh gần gũi như sau:
Bức phù điêu trên viên gạch đất nung chạm nổi hình Bà đanh, với hình dáng một người phụ nữ khỏa thân, khuôn mặt nghiêng sang vai phải, ngực lộ 2 núm vú, bụng nở, ngồi tư thế chống 2 chân, 2 tay nâng ngang đầu, 2 bên có hình âm dương, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, thế kỷ XVII (ảnh 4).


Bức phù điêu chạm hình một phụ nữ khỏa thân, khuôn mặt nhìn thẳng, ngực và bụng phình nở, cùng tư thế ngồi chống 2 chân, 2 tay nâng trên đầu hình lá đề, xung quanh có vầng hào quang. Đây là bức chạm gỗ ở chùa Thổ Hà, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh (trước đây thuộc xã Vân Hà, Việt Yên, Bắc Giang) tạc năm 1686 (ảnh 5).
Bức phù điêu chạm hình người đội mặt trời chạm nổi trên trán tấm bia chùa Ông ở Như Quỳnh, Hưng Yên tạc vào thế kỷ XVII, với chân dung một người phụ nữ khỏa thân để lộ ngực và bụng phình nở, 2 tay nâng trên đầu hình mặt trời nhiều tia, 2 bên có 2 chim phượng hoàng chầu vào (ảnh 6).

Những bức phù điêu này dù chạm khắc trên chất liệu đất nung, gỗ hay đá đều có điểm chung là mô tả về chân dung một người phụ nữ với tư cách như một Thiên thần, một Thánh Mẫu, hàm chứa những điều cầu mong phồn thực cho hạnh phúc của cư dân nông nghiệp.
Trở lại với đề tài 5 hình tượng phụ nữ khỏa thân thể hiện theo dạng phù điêu trên 2 chiếc lư hương, chúng tôi cho rằng đây là một sự tích hợp Phật giáo với tín ngưỡng Thờ Mẫu, tôn sùng thần linh nữ tính. Đây cũng là những bà Mẹ quyền năng đại diện cho ngũ phúc: càn, nguyên, hanh, lợi, trinh hay chủ trì theo thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu - Đạo Mẫu ở Việt Nam đã xuất hiện các nhân vật: Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Mẫu Thượng ngàn; Mẫu Thoải; Mẫu Địa Tiên; Cô Đôi Thượng ngàn. Năm hình tượng nữ thần - Thánh Mẫu xuất hiện ở 2 chiếc lư hương gốm Bát Tràng như trên cho phép suy đoán rằng, từ cuối thời Mạc đầu thời Lê Trung hưng, thế kỷ XVI -XVII, trong ngôi chùa Phật giáo đã có sự xuất hiện hòa nhập với tín ngưỡng thờ Đạo Mẫu? Dần dần thuyết ngũ hành được tín ngưỡng hóa mang tính chất thờ phụng linh thiêng phổ biến ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Với sự hòa quyện phật giáo và tín ngưỡng dân gian của cư dân nông nghiệp, người Việt cổ đã đưa thuyết này vào thờ phụng trong ngôi chùa Phật với hình tượng đại diện là Chúa Bà Ngũ Hành hay Năm mẹ ngũ hành (ảnh 7).

______________________
Tài liệu tham khảo
1. Trần Lâm Biền, Văn hóa - nghệ thuật chùa Việt, vài nét cơ bản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020.
2. Trần Lâm Biền (chủ biên), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2021.
3. Nguyễn Du Chi, Bản dập họa tiết mỹ thuật cổ Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội - Viện Mỹ thuật, 2000.
4. Nguyễn Đình Chiến và Phạm Quốc Quân, 2000 năm gốm Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 2005.
5. Phan Huy Lê, Nguyễn Đình Chiến và Nguyễn Quang Ngọc, Gốm Bát Tràng thế kỷ XV-XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1995.
6. Nguyễn Bá Thanh Long (chủ biên), Cổ vật Hải Phòng, Bảo tàng Hải Phòng và Hội Cổ vật Hải Phòng, Hải Phòng, 2009.
7. Lưu Trần Tiêu (chủ biên), Cổ vật Việt Nam, Bộ Văn hóa Thông tin - Cục Bảo tồn Bảo tàng - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 2003.
NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 626, tháng 11-2025