
Người viết bài này chỉ muốn khảo sát chủ đề quan trọng thuộc hệ thống di sản quý giá của nhà thơ: Đó là ý thức dân tộc và tấm lòng yêu nước của Nguyễn Du qua một số bài thơ ở tập Bắc hành tạp lục (gồm 130 bài). Thật ra ở thời trai trẻ, Tố Như từng quan tâm đến lĩnh vực này. Chẳng thế mà khi bị giam trong tù mười tuần, vì bị nghi ngờ đi về phía Nam theo Nguyễn Ánh, nhà thơ đã viết bài Mạn hứng ở trong tù có câu:
“Bốn tuần gió bụi, tuôn lệ khóc tình nhà nợ nước
Mười tuần trong lao ngục, lòng nghĩ đến việc chết sống”
“Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai được,
Dưới núi Hồng Sơn sông Quế sâu thăm thẳm.”
Nhưng phải đến lúc nhận cương vị Chánh sứ vượt qua biên giới để làm nhiệm vụ cống nạp cho “thiên triều”, thì Nguyễn Du mới ý thức được đầy đủ hơn vị trí của một nước chư hầu bị lệ thuộc. Cảm xúc được ghi chép trực tiếp bằng thơ qua Nhật ký liền mạch suốt hành trình kéo dài hai năm tròn. Nếu đọc kỹ, bạn có thể hiểu thêm thể giới quan cùng quan điểm thẩm mỹ qua ngòi bút tác giả, mà đối tượng phản ánh lại rất sinh động, nhiều hình nhiều vẻ. Đặc điểm nổi bật đầu tiên là nhà thơ không viết theo đề tài định sẵn thuộc mô hình thi ca cổ điển Hán - Đường - Tống - Nguyên, mà dòng cảm xúc tuôn trào đền đâu thì phóng bút đến đấy. Vui buồn, yêu thương, căm giận, ưu tư, ham muốn tức thời đan xen suy nghĩ đa chiều về thế sự... không theo bút pháp ước lệ, tượng trưng, mà đậm nét hiện thực cụ thể qua dạng Nhật ký thể hiện tâm trạng trước những gì được nảy sinh qua từng bước trải nghiệm. Sẽ không sợ quá lời rằng, Nguyễn Du thuộc bậc “thánh thi”; dường như mỗi bước đi, một khóe nhìn là có thể cầm bút viết nên bài thơ tứ tuyệt, hoặc thất ngôn đầy cảm xúc như lời đối thoại tâm tình với chính mình, hoặc tự sự với thế giới bên ngoài trước vô vàn chuyện cảnh, chuyện người qua biến đổi thăng trầm giữa dòng đời cuộn chảy. Với một khối lượng kiến thức uyên bác đầy nhạy cảm, qua các nhân vật văn hóa, văn nghệ, lịch sử... của Việt Nam lẫn Trung Hoa, tác giả muốn gửi gắm tâm tư nguyện vọng của chính mình về thời cuộc trên các nẻo đường ngang dọc.

Vào năm 1813, lần đầu tiên Nguyễn Du đặt chân qua biên giới Nam Quan tới nước Trung Hoa trên cương vị Chánh sứ, trưởng đoàn ngoại giao của triều đình nhà Nguyễn. Trước đây tới Lạng Sơn (1804) nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh, cảm xúc của nhà thơ dồi dào chất trữ tình qua những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, hoặc động lòng trắc ẩn khi nếm trải thân phận hẩm hiu của chính mình, thì trên đường đi sứ lại đậm nét suy tư về vận mệnh đất nước, về con đường lịch sử của dân tộc mình. Cùng với tư tưởng nhân đạo truyền thống, ý thức dân tộc được bộc lộ rõ nét qua một số bài thơ chữ Hán. Cụ thể là chùm thơ liền mạch bốn bài được viết theo hành trình đi sứ: Quỷ môn quan, Trấn Nam quan, Miếu Phục Ba ở thành Kép (Giáp thành Mã Phục Ba miếu), Đề miếu Mã Phục Ba ở Đại Than (Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu).Đã từ lâu, chùm thơ này, chưa được chú ý trong hệ thống sáng tác của thi hào. Trước hết hãy đọc bài Trấn Nam quan:
Việc cũ đời Lý Trần xa xôi khó tìm biết,
Trải qua ba trăm năm cho đến ngày nay
Bức thành lẻ loi này phân chia hai nước
Một cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa lòng muôn ngọn múi...
(Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm)
Trấn Nam quan được tác giả khắc họa như lời khẳng định thêm một lần nữa biên cương của Tổ quốc từng được thiết lập từ bao đời giữa lưỡng quốc và hùng trấn một phương nơi điệp trùng núi non phân cách. Quả thật “nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm” là một bức tranh ngời sáng, hùng vĩ, đầy nét tạo hình gợi cho người đọc nhớ đến âm thanh hào sảng từ bài thơ Thần thời Lý Thường Kiệt chống ngoại xâm (1076) hơn bảy trăm năm về trước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư....
Và dường như đâu đây vẫn còn vang lên âm điệu mạnh mẽ của bản tuyên ngôn độc lập dân tộc Đại cáo bình Ngô sau chiến thắng quân Minh xâm lược:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
vốn xưng văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần... gây nền độc lập
cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”
Không phải ngẫu nhiên mà bài Trấn Nam quan xuất hiện cùng một thời gian với bài Quỷ môn quan. Có thể so sánh với chùm thơ được viết trên hành trình lần đầu tới Lạng Sơn để tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong vương cho Gia Long, Nguyễn tiên sinh đã viết một loạt bài thơ cảm tác, nối bật là: Quý môn quan đạo trung (Trên đường qua ải Chi Lăng), Lạng Sơn đạo trung (Trên đường đi Lạng Sơn), Vọng phu thạch (Hòn vọng phu), Đệ Nhị Thanh động (Động Nhị Thanh), Xuân tiêu lữ thứ (Đêm xuân lữ thứ). Chùm thơ này biểu hiện những cảm xúc trữ tình cá nhân trước thiên nhiên đầy ấn tượng nơi biên thuy hai nước Việt - Trung, chốn địa danh lịch sử sơn thuỷ hữu tình nơi tác giả đặt chân tới, giống như những cảm xúc thường gặp mỗi khi nhà thơ đứng trước núi sông, mây trời tươi đẹp trên quê hương Lam - Hồng, hoặc dọc đường vào kinh đô Huế theo dãy Hoành Sơn trùng điệp. Nhưng đến khi được giao sứ mệnh mới mẻ lên đường sang “thiên quốc” làm nhiệm vụ đối ngoại, thì tâm trạng nhà thơ lại không vui, bởi đang ngổn ngang trăm mối trước việc nước, việc nhà đan xen. Nỗi buồn tràn ngập đến trào “nước mắt thấm khăn” về nỗi đời đa đoan: vợ và đàn con nheo nhóc đói rét chốn Tiên Điền mỏi mắt trông đợi; còn sự nghiệp văn chương vẫn đang bồng bềnh. Nghĩ thương phận mình, vốn đường đường một đấng nam nhi thuộc dòng danh gia vọng tộc lừng danh một thời! Bấy giờ đúng lúc ông vừa mới bước chân vào chốn quan trường của triều đình Gia Long (lên ngôi 1802), một sĩ phu Bắc Hà bước vào cộng tác với chính quyền nhà Nguyễn, lòng dạ trăm mối, nhà thơ chưa thể hòa nhập chia sẻ niềm vui mới giữa thời cuộc, mà chỉ muốn về quê. Nỗi bâng khuâng giữa dòng đời được hiển hiện ở bài Xuân tiêu lữ thứ:
“Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không nghĩ đến chuyện rong ruổi,
Trên đường danh lợi, buồn hay vui cũng không được tự nhiên.
Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn đẹp,
Đứng dưới Đoàn thành (Lạng Sơn), nước mắt thấm khăn.
Khác hẳn bài được viết tám năm trước, thì chuyến đi sứ lần này hình ảnh Quỷ môn quan lại hiện ra dưới tầm mắt nhà thơ - sứ giả một điểm nhìn mới, một sự tự ý thức đậm nét trên cương vị một “trưởng đoàn ngoại giao” với tư thế “phương diện quốc gia” đại diện cho dân tộc Việt Nam. Không phải tình cờ mà tác giả lại tưởng nhớ về chuyện xưa với cảm xúc sử thi. Đúng là gã tướng quân nhà Hán từ năm 42 sau Công Nguyên đã đem quân sang đánh chiếm đất Giao Chỉ, đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, mà mỗi người dân Việt từ xưa đến nay đều không thể nào quên câu ca thuở ấy:
Uy danh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công…
Và tất nhiên Hán tướng quân phải thúc đoàn quân xâm lược vượt qua Quỷ môn quan. Bởi thế nên khi đi qua cửa ải hiểm trở này, Nguyễn Du đã nhớ lại quá khứ lịch sử đau thương, rồi gọi đích danh Mã Viện để phê phán hành động cướp nước tàn bạo của gã, đồng thời chính trên mảnh đất này, ý thức tự cường dân tộc của nhà thơ được thể hiện rành rành trong hai câu mở đầu của bài Quỷ môn quan:

Núi liên tiếp cao vút tận mây xanh
Nam Bắc chia ranh giới ở nơi này.
Đây là lời khẳng định lại lần nữa biên cương Tổ quốc nước Việt đã có tự bao đời. Tiếp đến hai câu thực, tác giả xoáy sâu vào tấn bi kịch lịch sử mà chính Phục Ba tướng quân đã gây nên trong cuộc chiến dã man đẫm máu:
Chốn này có tiếng nguy hiểm như thế,
Thương thay biết bao người vẫn phải đi về!
Tác giả không ngần ngại nhắc lại câu thơ cố nói lên tình trạng hiềm nguy, chết chóc đối với binh lính và dân binh phương Bắc thời xưa phải tham gia các cuộc chiến xâm lược nước Việt hết triều vua này đền triều vua khác. Câu thơ cổ tựa lời cảnh báo đắt giá nếu bước qua lời nguyền ấy:
Quy môn quan! Quỷ môn quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn...
Rồi từ đấy rút ra lời đánh giá rất sắc bén:
Từ xưa gió lạnh thổi xương trắng,
Kỳ công của tướng quân nhà Hán có gì đáng khen!
Đúng là Hán tướng quân đem binh mã rầm rộ sang đánh Giao Chỉ, tuy có lúc thắng trận, nhưng quân lính chết như rạ, đó không phải là chiến công đáng ca ngợi! Với Mã Viện thì câu nói xưa của người Tàu là rất phù hợp: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô!” Bản dịch đã diễn thành thơ khá đạt:
Ngàn thu gió lạnh phơi xương trắng,
Công cán khen gì tướng Hán hay!
Mở rộng hơn, sau khi đặt chân lên đất Trung Hoa, nhà thơ sứ giả lại khắc họa chân dung tướng Phục Ba lúc đi qua miếu thờ lão ta bằng hai bài thơ đầy góc cạnh. Bài thứ ba Giáp Thành Mã Phục Ba miếu được mở đầu:
Người già sáu mươi tuổi thì gân sức suy,
Mà ông còn mặc áo giáp nhảy lên yên ngựa nhanh như bay…
Mặc dù vị chánh sứ không hề đề cập đến chuyện quan hệ đối ngoại trước mắt, song rõ ràng là nhà thơ thể hiện đúng đắn ý thức dân tộc chân chính trong việc hồi tưởng lại quá khứ, như muốn “lấy xưa để nói nay”
Hơn nữa cũng không phải ngẫu nhiên mà ông vạch rõ Mã Viện chỉ là kẻ xâm lược đích thực và còn chế giễu sâu cay hình ảnh “đồng trụ Mã Viện” cũng như chuyện tham lam vàng bạc, ngọc châu cướp được từ đất
Giao Chỉ gây nên bao điều rắc rối lúc Phục Ba chầu trời:
... Cột đồng trụ chỉ lừa được đàn bà con gái đất Việt,
Xe ngọc châu luống để lụy cho con cái trong nhà.
Hình ảnh “Cột đồng trụ chỉ lừa được đàn bà con cái Việt” vừa bóng bẩy, đa nghĩa, thấp thoáng nụ cười mai mỉa, vừa toát lên tội ác thâm độc lâu dài của kẻ thù. Từ đấy dẫn đến kết luận đích đáng về con người Mã Viện trong xã hội “thiên triều” bằng ngôn ngữ thơ với giọng điệu châm biếm pha nét khinh bỉ:
Tên tuổi ông chỉ đáng được ghi ở gác Vân Đài thôi,
Chứ sao lại còn đòi nước Nam hàng năm cúng tế ?
Thật thú vị! Bài thơ ngắn mà cấu tứ đầy nét tương phản qua các hình tượng trái ngược. Lời chất vấn quá khứ vừa sắc sảo, vừa đậm nét phê phán hóm hỉnh tạo nên tiếng cười thâm thúy. Không dừng lại đó, tác giả vẫn tiếp tục lên án nhân vật hiếu sát và hiếu danh ấy, dường như muốn cho mọi người nhớ về quá khứ rằng, tướng Phục Ba tuy tuổi già còn hăng hái xông pha trận mạc, nhưng cũng từng nếm trải những tháng ngày khiếp sợ trên đất Giao Chỉ đến mức đã phải “hối hận” tại hồ Dâm Đàm (Hồ Tây) - nơi ông ta đặt trạm chỉ huy trung tâm gần hai ngàn năm về trước qua bài Đề miếu Mã Phục Ba ở Đại Than:
Mở đường Ngũ Lĩnh sang đánh Viêm Bang,
Công danh hơn đời ghi trong sử sách
Về già còn khoe mình quắc thước
Ngoài cơm áo, cái gì cũng là thừa.
Sóng gió nơi Đại Than lưu công trạng ngày trước,
Tùng sam cạnh miếu cổ cách làng xóm cũ.
Trong bóng chiều, dưới đám gai góc ở phía tây,
Lời hối xưa ở hồ Dâm Đàm như thế nào rồi?
Câu hỏi tu từ theo dạng nghi vấn - khẳng định về hình ảnh “Dâm Đàm di hối” thật hàm súc, sâu cay gắn liền với chuyện xưa kể rằng, Mã Viện đem quân sang đánh Hai Bà Trưng đóng quân ở cạnh hồ Dâm Đàm. Khi ông ta trông thấy mặt hồ mờ mịt mây đen, gió cuốn cuồn cuộn đến nỗi diều hâu bay lượn trên mặt hồ đều bị gió dập rơi xuống nước. Trước cảnh tượng lạ lẫm ấy, vị tướng Tàu đâm ra hối hận.
Về nội dung cũng như nghệ thuật, bốn bài thơ quả không nhiều trong tập Bắc hành tạp lục. Tuy viết bằng Hán tự và phải khuôn theo lối kết cấu đối xứng gò bó ngắn gọn, nhưng các tác phẩm ấy lại chứa đựng một dung lượng lịch sử rộng lớn đa nghĩa, vừa hiện thực, vừa súc tích trầm lắng, đầy hình ảnh gợi cảm vượt cả thời gian - không gian khiến cho người đọc xưa và nay phải suy nghĩ và càng hiểu rõ hơn tư tưởng, tình cảm cũng như sự nghiệp đồ sộ của nhà thơ.
Không nghi ngờ gì nữa, chùm thơ trên đã góp phần làm giàu thêm kho tàng văn chương yêu nước của nhân dân ta. Hơn thể, qua đó người đọc còn khẳng định được ý thức dân tộc và ý thức công dân cao đẹp trong con người tài hoa đầy tâm huyết của Nguyễn Du, một vĩ nhân văn hóa nhân loại. Từ trước đến nay, công việc khảo cứu, tìm hiểu, bình luận... về thân thể sự nghiệp Nguyễn Du khá dồi dào, mà trọng tâm là xoay quanh Truyện Kiều, còn lĩnh vực này không được chú ý đầy đủ. Có thể có nhiều lý do khác nhau, nhưng dù đứng ở góc độ nào thì ngày nay với quan điểm biện chứng, khách quan khoa học, chúng ta càng phải trân trọng những cống hiến quý giá của người công dân ưu tú, nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc Việt Nam và của cả nhân loại.
NGUYỄN TRƯỜNG LỊCH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 629, tháng 12-2025