Nguyễn Văn Cừ - nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam

Quá trình hoạt động đầy nhiệt huyết, cống hiến và hy sinh cao cả quên mình của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta mãi mãi là tấm gương ngời sáng, để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam học tập, noi theo.

Tượng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại Mỏ than Mạo Khê - Ảnh: Vũ Quảng Ninh

 

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912 trong một gia đình trí thức yêu nước ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kế thừa truyền thống của gia đình, quê hương, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã sớm trở thành một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng ta khi tuổi đời còn rất trẻ.

Mang trong mình dòng máu yêu nước, văn hóa truyền thống của gia đình; lớn lên trong phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1927, khi còn đang theo học ở trường Bưởi (Hà Nội), Nguyễn Văn Cừ đã hăng hái tham gia các hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1928, Nguyễn Văn Cừ bị đuổi học vì mật thám Pháp phát hiện đồng chí tham gia hoạt động cách mạng.

Tháng 8/1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa” của Kỳ hội Bắc kỳ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Văn Cừ được cử đi vùng mỏ than Đông Bắc. Nhiệt huyết cách mạng, năng lực tổ chức phong trào, khả năng tuyên truyền cách mạng trong giai cấp công nhân của Nguyễn Văn Cừ sớm được thể hiện và đồng chí đã nhanh chóng trưởng thành từ phong trào của giai cấp công nhân. Chỉ sau một năm “vô sản hóa”, năm 1929, ở tuổi 17, Nguyễn Văn Cừ đã trở thành người trực tiếp chỉ đạo phong trào công nhân, phong trào cộng sản ở khu vực có số lượng công nhân tập trung lớn nhất nước ta. Tháng 6/1929, Nguyễn Văn Cừ trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đông Dương Cộng sản Đảng.

Năm 1930, Nguyễn Văn Cừ cùng với Nguyễn Đức Cảnh tổ chức thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên ở Mạo Khê, sau đó phát triển tổ chức cơ sở đảng trên toàn vùng mỏ, thành lập Đặc khu ủy mỏ, ra tờ báo Than. Ngay từ những số đầu tiên, tờ báo Than đã động viên, cổ vũ và hướng dẫn quần chúng đứng lên đấu tranh chống chế độ áp bức bất công của thực dân Pháp, ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Ngày 15/2/1931, trên đường đi công tác Cẩm Phả - Hồng Gai, Nguyễn Văn Cừ bị thực dân Pháp bắt và đưa về giam ở Nhà tù Hỏa Lò. Biết người bị bắt là cán bộ Đảng phụ trách vùng mỏ, thực dân Pháp đã đưa đồng chí về Sở Mật thám Hải Phòng, dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man hòng moi tin tức nhưng chúng đều thất bại, sau đó đưa về nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) giam cầm. Mặc dù không đủ bằng chứng nhưng Hội đồng đề hình Hà Nội vẫn xử Nguyễn Văn Cừ án “phát lưu chung thân” và đày ra Côn Đảo.

Tại nhà tù Côn Đảo (từ năm 1931-1936), chịu sự đày ải khắc nghiệt của thực dân Pháp nhằm tiêu diệt ý chí cách mạng của những chiến sĩ cộng sản nhưng Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí cán bộ trung kiên của Đảng biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Đồng chí đã được nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin như: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Hai sách lược của Đảng”, “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào công nhân”, “Nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin”… thắp sáng niềm tin vào tiền đồ thắng lợi của cách mạng.

Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp và áp lực đấu tranh của nhân dân ta, Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị ở Côn Đảo được trả tự do. Sau khi được trả tự do, Nguyễn Văn Cừ đã trở về Hà Nội liên lạc với các đồng chí ở Trung ương thành lập ra “Ủy ban sáng kiến” nhằm khôi phục cơ sở và phát triển phong trào cách mạng. Tháng 7/1937, Nguyễn Văn Cừ tham gia thành lập Xứ ủy Bắc kỳ mở đầu cho thời kỳ khôi phục các cơ sở Đảng ở Bắc kỳ và Trung kỳ, cũng là thời kỳ đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ và đưa Đảng ra hoạt động công khai.

Năng lực của đồng chí Nguyễn Văn Cừ được Đảng ta khẳng định trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 25/8 đến 4/9/1937. Đồng chí đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. 6 tháng sau đó, với phẩm chất, trí tuệ và tài năng tổ chức đã được thể hiện của mình, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, họp từ ngày 29 đến 30/3/1938, đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong lịch sử Đảng ta, Nguyễn Văn Cừ là một trong hai người giữ cương vị Tổng Bí thư ở độ tuổi trẻ nhất - 26 tuổi.

Sang năm 1939, tình hình thế giới hết sức phức tạp, bọn tờ rốt kít đẩy mạnh chống phá Đảng Cộng sản, một số cán bộ nòng cốt của Đảng ta bị bắt. Trong nội bộ Đảng, một số cán bộ có tư tưởng “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Để chấn chỉnh kịp thời những tư tưởng lệch lạc sai trái trên, tháng 7/1939, với bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết và cho in cuốn Tự chỉ trích là một tác phẩm lý luận cách mạng xuất sắc, đã chỉ đạo quần chúng cách mạng đấu tranh lột mặt nạ bọn tờ rốt kít phản động, thẳng thắn phê phán tư tưởng cải lương, thỏa hiệp dưới mọi màu sắc, đồng thời đưa ra nguyên lý phê bình và tự phê bình trong nội bộ nhằm củng cố và xây dựng Đảng. Trong lời kết của tác phẩm “Tự chỉ trích” viết cách đây 83 năm, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ như đã để lại di huấn cho Đảng ta: “Chúng ta đã phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ: xu hướng “tả khuynh”, cô độc nó muốn làm Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng và xu hướng thoả hiệp hữu khuynh, lung lay trước những tình hình nghiêm trọng nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh”(1). Đến nay, tác phẩm Tự chỉ trích vẫn còn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự sâu sắc, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII và khóa XIII) về xây dựng Đảng.

Tháng 11/1939, trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ hai, đồng chí đã có những ý kiến chỉ đạo rất sắc sảo rằng chiến tranh thế giới xảy ra thì đế quốc sẽ nhảy vào phát xít hóa bộ máy thống trị Đông Dương, phải mau lẹ đưa các cơ sở Đảng của ta vào hoạt động bí mật và đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị đã đưa ra Nghị quyết nhấn mạnh: “Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, đồng thời thành lập Mặt trận dân tộc phản đế thay cho Mặt trận dân chủ”. Những quyết định đúng đắn kịp thời trên của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI đã có vai trò quan trọng to lớn cho cách mạng nước ta trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1945).

Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào cao trào mới, ngày 18/1/1940, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị quân thù xử bắn.

Với 29 tuổi đời, hơn 13 năm tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn 2 năm làm Tổng Bí thư của Đảng, hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đối với Đảng và dân tộc Việt Nam là rất to lớn.

Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đi vào lịch sử dân tộc; đồng chí là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, một tấm gương ngời sáng về lòng yêu nước và đạo đức cách mạng - đã dâng hiến cuộc đời cho độc lập của Tổ quốc, tự do của dân tộc, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

_______________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 645.

 

NGUYỄN THANH HOÀNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 504, tháng 7-2022

 

;