• Nghệ thuật > Sân khấu biểu diễn

Ngôn ngữ của đồ vật trong nghệ thuật kịch: một số khảo sát từ cấp độ chỉ dẫn sân khấu.

Trong tựa Cromwell, Victor Hugo đã nhắc đến mối quan hệ giữa những nguyên tắc mỹ học đối với thị hiếu thời đại. Nếu như thời đại sơ kỳ (thời đại Kinh thánh) gắn với tính trữ tình; thời anh hùng (thời đại Homère) có tính bi kịch thì thời hiện đại của Victo Hugo, sân khấu dựa trên nền tảng Cơ đốc giáo, hướng tới những suy tư đối với thân phận con người. Xem xét vấn đề đồ vật trong diễn xuất trên sân khấu, đặc biệt là trong các chỉ dẫn sân khấu, sẽ cho chúng ta một góc nhìn về sự thay đổi thị hiếu thẩm mỹ của diễn xuất sân khấu ở các giai đoạn khác nhau. Trong một số trường hợp, đồ vật trở thành một phương tiện để thay thế lời thoại kịch. Ở thời điểm lời nói trở nên không đủ, những yếu tố khác đã thay thế chúng, như động tác, điệu bộ, âm thanh, đồ vật. Những yếu tố đó lấp đầy không gian vật lý của sân khấu.

Ngôn ngữ đồ vật trong nghệ thuật kịch: một số khảo sát từ cấp độ chỉ dẫn sân khấu.

Trong tựa Cromwell, Victor Hugo đã nhắc đến mối quan hệ giữa những nguyên tắc mỹ học đối với thị hiếu thời đại. Nếu như thời đại sơ kỳ (thời đại Kinh thánh) gắn với tính trữ tình; thời anh hùng (thời đại Homère) có tính bi kịch thì thời hiện đại của Victo Hugo, sân khấu dựa trên nền tảng Cơ đốc giáo, hướng tới những suy tư đối với thân phận con người. Xem xét vấn đề đồ vật trong diễn xuất trên sân khấu, đặc biệt là trong các chỉ dẫn sân khấu, sẽ cho chúng ta một góc nhìn về sự thay đổi thị hiếu thẩm mỹ của diễn xuất sân khấu ở các giai đoạn khác nhau. Trong một số trường hợp, đồ vật trở thành một phương tiện để thay thế lời thoại kịch. Ở thời điểm lời nói trở nên không đủ, những yếu tố khác đã thay thế chúng, như động tác, điệu bộ, âm thanh, đồ vật. Những yếu tố đó lấp đầy không gian vật lý của sân khấu.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với việc dàn dựng và tổ chức biểu diễn kịch nói tại TP.HCM

Kịch nói - một loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ phương Tây với điểm mạnh luôn mang hơi thở của thời đại, có tính thích ứng cao được khán giả Việt Nam nói chung, khán giả Sài Gòn - TP.HCM nói riêng đón nhận một cách nhiệt thành. Kịch nói Sài Gòn - TP.HCM đã trải qua những giai đoạn thăng trầm và để lại dấu ấn đẹp trong nền nghệ thuật nước nhà. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, kịch nói đang gặp nhiều khó khăn trong việc tìm thị trường khán giả, nhất là khi cuộc cách mạng công nghệ 4.0 với những thành tựu đáng kinh ngạc về khoa học đã thâm nhập vào hầu hết lĩnh vực của đời sống xã hội, thì kịch nói cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng chung đó.

Phát triển khán giả sân khấu truyền thông nhìn từ lý thuyết lựa chọn duy lý

Trong quá khứ, các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống như: tuồng, chèo, múa rối, cải lương… từng đóng vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng. Nhưng hiện nay, trước nhiều nguyên nhân, nghệ thuật sân khấu ngày càng mai một, lượng khán giả ngày càng giảm mạnh. Điều này đặt ra một vấn đề cấp thiết là giải pháp nào để khôi phục lại sức sống của nghệ thuật sân khấu truyền thống trong xã hội đương đại? Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin giới thiệu thuyết lựa chọn duy lý của các nhà khoa học phương Tây như một phương cách có tính chất lý luận trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề trên.

Một góc nhìn về xu hướng vận động của nghệ thuật sân khấu

Kể từ Nghị quyết 05 khóa VIII của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cho tới nay, các nghệ sĩ ngành sân khấu nói chung, các tác giả, đạo diễn, diễn viên nói riêng, ít ai quan tâm tới các xu hướng vận động của văn học nghệ thuật Việt Nam. Năm 1997, nghệ thuật sân khấu Việt Nam bắt đầu thực hiện nhiệm vụ xã hội hóa theo yêu cầu của Đảng. Tuy nhiên, mô hình xã hội hóa cho đến thời điểm hiện nay, ở nhiều sân khấu lại đi theo những con đường khác so với thời điểm ban đầu.

Vấn đề bảo tồn và phát triển nghệ thuật cải lương từ góc nhìn quá khứ

Cải lương là loại hình nghệ thuật kết tinh từ những tinh hoa của nhiều loại hình nghệ thuật khác, đã phát triển theo thời gian, vượt mọi không gian để trở thành một nền sân khấu ca kịch truyền thống của dân tộc. Mặc dù mang đậm bản sắc dân tộc nhưng cải lương cũng luôn dung nạp những hơi thở mới của thời đại, từ nội dung cho đến hình thức nghệ thuật để đáp ứng yêu cầu của công chúng. Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại là điều làm nên thành công của nghệ thuật cải lương trong quá khứ. Cải lương hôm nay muốn tồn tại và phát triển được cũng cần phải phát huy được những thành tựu của mình trong quá khứ.

Cái hài trong truyện cười dân gian và trên sân khấu hiện đại

Cái hài truyền thống của người Việt có nội dung và sắc thái phong phú, thường tập trung trong truyện cười dân gian. Nó phản ánh một bức tranh xã hội rộng lớn của cuộc đấu tranh giữa trí tuệ và đạo đức của nhân dân đối với giai cấp thống trị, áp bức phong kiến. Bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo, nội dung mang tính triết lý sâu sắc, cái hài truyền thống mang lại với tiếng cười nhiều cung bậc cảm xúc, có tác dụng lên án những thói hư tật xấu của những thế lực vương quyền và thần quyền. Cái hài truyền thống cần được xem là cơ sở nền tảng để xây dựng cái hài trên sân khấu hiện đại.

Kế thừa, phát triển chèo truyền thống trong xây dựng cốt truyện "Bài ca giữ nước"

Cốt truyện đóng vai trò then chốt trong văn học tự sự và tác phẩm sân khấu, như một nhà phê bình đã nói: “Không có cốt truyện tức là không có chuyện, thì không có gì mà kể”. Như vậy, giá trị nội tại của cốt truyện nằm ở chỗ khả năng dung chứa hàng loạt sự việc và hành động của con người với quá trình phát triển tâm lý, tính cách trong những mối liên hệ qua lại với nhau ở một khung cảnh hay giai đoạn xã hội nào đó. Qua đó, bức tranh chân thực, đa sắc, đa thanh về cuộc sống được phản ánh, bộc lộ rõ nét và sinh động. Trong tài sản vô giá của văn học nghệ thuật Cách mạng Việt Nam, bộ ba chèo Bài ca giữ nước của cố NSND Tào Mạt luôn có một vị thế trang trọng bởi vẻ đẹp trọn vẹn, sáng ngời của tầm vóc tư tưởng quyện hòa với chất hào hoa, lịch lãm, tính chỉnh thể thống nhất trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện.

Công chúng của sân khấu kịch nói thành phố Hồ Chí Minh

Vở diễn và người xem là hai thực thể đánh dấu sự tồn tại của một tác phẩm sân khấu. Có một số vở diễn mang giá trị nghệ thuật sâu sắc nhưng không thu hút đông đảo người xem. Cũng có những vở diễn chất lượng nghệ thuật không cao, nhưng trong thời điểm nào đó vẫn thu hút đông người đến rạp. Dẫu vậy, người xem vẫn là giá trị khách quan, được công nhận đối với mỗi vở diễn. Người xem vừa là đối tượng thưởng thức, hưởng thụ nghệ thuật, vừa là người thẩm định, đánh giá tác phẩm. Bằng thái độ hưởng thụ, người xem có tác động ngược lại với sân khấu. Đặc biệt, một trong những nhiệm vụ sống còn của sân khấu là thu hút được đông đảo người xem đến với sàn diễn.

Đặc tính linh hoạt và biểu cảm trong nghệ thuật cải lương Nam Bộ

Vào những thập niên đầu của TK XX, cải lương ra đời ở Nam Bộ, giữa lúc công chúng dần quay lưng với sân khấu hát bội truyền thống và lối ca ra bộ cần có một không gian mở để trình diễn. Cải lương ra đời như sự đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của công chúng và nghệ thuật biểu diễn. Theo thời gian, cải lương không chỉ được tiếp nhận ở Nam Bộ, mà còn trở thành loại hình sân khấu độc đáo định hình và phát triển ở các vùng văn hóa khác trong nước. Bài viết nhận diện, phân tích chủ thể văn hóa, đặc tính linh hoạt và biểu cảm trong cấu trúc nghệ thuật của loại hình cải lương Nam Bộ. Môi trường tự nhiên - xã hội góp phần hình thành đặc trưng tính cách của chủ thể văn hóa - người Việt ở Nam Bộ. Tính linh hoạt và biểu cảm là những đặc trưng tiểu biểu trong cấu trúc nghệ thuật cải lương. Tính mở trong cấu trúc nghệ thuật cải lương chính là biểu hiện của tính linh hoạt. Nghệ thuật cải lương thể hiện sự ứng biến và linh hoạt trên các bình diện từ chủ thể sáng tác, biểu diễn, thưởng thức, đến sự vận dụng các phương tiện nghệ thuật trên sân khấu. Chất trữ tình, giàu cảm xúc trong bài bản, làn điệu, diễn xuất của cải lương chính là đặc trưng biểu cảm của loại hình nghệ thuật này.

Vọng cổ nhịp 32 trong một số sinh hoạt văn hóa Nam Bộ

Trong văn hóa nghệ thuật, thanh sắc Nam Bộ, thể điệu vọng cổ nhịp 32 là một thành tố quan trọng, một biểu tượng trong tâm thức văn hóa của người dân Nam Bộ. Bởi nó có những đặc điểm độc đáo hơn so với hàng trăm thể điệu khác trong cùng hệ thống; được phổ biến rộng khắp và phục vụ tích cực với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng Nam Bộ. Bài viết nhằm giới thiệu những nét độc đáo của vọng cổ nhịp 32 trong một số sinh hoạt văn hóa Nam Bộ.