Khởi nghĩa Nam Kỳ - Mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam

80 năm đã trôi qua, nhưng hào khí cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23/11/1940 là một sự kiện lịch sử chói lọi, bùng lên ngay khi phong trào cách mạng nước ta bước vào thời kỳ mới; là bản hùng ca bi tráng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Nam Kỳ (cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn). Nhân dân toàn xứ Nam Kỳ đã đồng loạt thực hiện cuộc nổi dậy đánh vào hệ thống cai trị của thực dân Pháp và bọn tay sai, làm tan rã bộ máy cai trị của chúng ở một số vùng nông thôn, thị trấn.

Sau khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, nhân dân ta phải chịu hai tầng áp bức của Pháp-Nhật. Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn, không cam chịu cuộc sống nô lệ, được sự cổ vũ mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ sục sôi khí thế cách mạng quyết đứng lên đấu tranh giành chính quyền.

Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ  bảy (Khóa I) họp tại Hóc Môn - Bà Điểm, Sài Gòn đề ra chủ trương “Cách mạng giải phóng dân tộc” bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền. Đầu năm 1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần, Ủy viên Trung ương Đảng kiêm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ đã vạch ra đề cương chuẩn bị bạo động, đưa ra các hoạt động tự phát vào phong trào chống thực dân Pháp và tay sai dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa.

Kể từ khi Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ ra Đề cương chuẩn bị bạo động (tháng 3-1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai rất khẩn trương, các tổ chức phản đế xuất hiện nhiều nơi, nhất là ở vùng nông thôn. Trong thời gian này, Xứ ủy Nam Kỳ họp nhiều lần, bàn về kế hoạch khởi nghĩa. Trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, ảnh hưởng của không khí cách mạng từ khởi nghĩa Bắc Sơn, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa vào đêm 22/11/1940.

Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng nêu rõ, điều kiện ở Nam Kỳ và cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Sau đó, Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở về để hoãn cuộc khởi nghĩa. Đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt. Lúc bấy giờ, Xứ ủy Nam Kỳ đã phát lệnh khởi nghĩa khắp nơi nên không thể thu hồi.

Mặt khác, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã phần nào mất đi yếu tố bất ngờ. Tối ngày 22/11/1940, đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ ủy mới thay đồng chí Võ Văn Tần (bị bắt từ ít tháng trước) và một số đồng chí khác trong Thành ủy Sài Gòn sa lưới mật thám. Pháp ra lệnh cấm trại binh lính người Việt và tước vũ khí của số người có ý định phản chiến. Kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940 làm súng lệnh đã không thành công.

Nhân dân Nam bộ trong Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11/1940

Vào đêm 22 rạng sáng ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Khởi nghĩa diễn ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, đó là ở Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, đặc biệt quyết liệt ở Hóc Môn (Bà Điểm, Gia Định), Cai Lậy (Mỹ Tho), Vũng Liêm (Vĩnh Long). Khắp vùng nông thôn Nam Bộ rung chuyển, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền. Ở Mỹ Tho, 54 trong số 56 xã được giải phóng. Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen, Xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác ôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh). Sài Gòn - Chợ Lớn là trọng điểm của cuộc khởi nghĩa nhưng không nổ ra được vì kế hoạch bị lộ; địch đã tước vũ khí và cấm trại thành lính tập, đưa lính Âu - Phi ra trấn giữ các ngả đường, các công sở… Ở những nơi nổ ra khởi nghĩa, nhân dân đã giành được chính quyền ở một số làng xã. Ở Cần Giuộc, Bến Lức (Long An), đội du kích của đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là “Bà Chúa Đỏ”. Ở Vũng Liêm (Vĩnh Long), đội du kích và quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận lỵ. Ở Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do Bí thư Tỉnh ủy chỉ huy bức rút 2 đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho; Long Hưng - Mỹ Tho còn lập ra tòa án nhân dân để xét xử bọn tề gian ác. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông… của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng… Lần đầu tiên trong lịch sử, cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc các trụ sở chính quyền thực dân mà quân ta tiến chiếm. Lá cờ đã trở thành biểu tượng niềm tin tất thắng và tinh thần tự tôn dân tộc.

Ngày 14/12/1940, địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến ngày 14/1/1941, chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười… Thực dân Pháp khủng bố rất khốc liệt, dã man. Hàng chục xe chở đầy lính được tung đi săn lùng quân du kích, càn quét các vùng khởi nghĩa. Hai mươi máy bay được huy động ném bom các vùng có quần chúng nổi dậy như Năm Thôn, Cai Lậy, Chợ Giữa, Càng Long (Mỹ Tho). Chỉ trong 40 ngày, riêng bốn tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Long Xuyên và Cần Thơ có tới 5.640 người bị giặc lấy dây thép xâu tay rồi phơi nắng cho đến chết khô, hoặc chất lên sà lan để đưa ra biển nhận chìm. Rất nhiều đồng bào, đảng viên, cán bộ, chiến sĩ đã bị địch bắt, tra tấn, tù đày, giết chóc vô cùng tàn bạo với bao tổn thất. Các đồng chí lãnh đạo, những người con ưu tú của của dân tộc, của Đảng như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu Tiến, Phan Ðăng Lưu... đã anh dũng hy sinh trước họng súng quân thù. Tấm gương dũng cảm của các đồng chí mãi mãi sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Trước tình hình đó, Đảng bộ Nam Kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui để tránh tổn thất, sử dụng lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương chia lửa với Nam Kỳ. Nào rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động đánh du kích chống địch và nếu có điều kiện thì phá đường, cầu cống ngăn cản quân thù đàn áp, bảo vệ lực lượng cách mạng...

Tuy chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. So với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) cũng như so với hai cuộc khởi nghĩa cùng diễn ra trong năm 1940 (khởi nghĩa Ba Tơ 11/3 và khởi nghĩa Bắc Sơn 27/9), khởi nghĩa Nam Kỳ có quy mô rộng khắp. Đây là một cuộc diễn tập lớn nhất và mạnh mẽ nhất của đồng bào Nam Bộ và của cả nước, kể từ khi thực dân Pháp xâm lược (năm 1858) cho đến lúc đó. 

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ phất cao ngọn cờ đỏ sao vàng đã làm rung chuyển chính quyền thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, làm tan rã bộ máy cai trị của địch ở một số vùng nông thôn Nam Bộ và trong thời gian ngắn, chúng ta giành quyền làm chủ ở đó. Do thời cơ chưa xuất hiện, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại nhưng đã có tiếng vang lớn, không những trong nước mà còn làm nức lòng cả những chiến sĩ cách mạng ở Pháp. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Đảng Cộng sản Pháp đã gửi đến Đảng Cộng sản Đông Dương một bức thư, trong đó có đoạn: “Chúng tôi cúi đầu trước vong linh những người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã hy sinh hồi tháng 11 dưới súng liên thanh của Decoux, Beaudouin, Pétain… Chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước những người anh hùng đó, đặc biệt chúng tôi nghiêng mình trước những anh chị em ruột thịt anh hùng là đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5/1941) phân tích ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn - Nam Kỳ - Đô Lương diễn ra trong hơn 3 tháng ở ba miền Trung Nam Bắc đã cho rằng: “Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính chất nhân dân rộng rãi, sâu sắc. Các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội đều tham gia khởi nghĩa trên quy mô rộng lớn khắp Nam Kỳ.

Tôn vinh ý nghĩa to lớn của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, Bác Hồ đã ký sắc lệnh số 163/SL ngày 14/4/1948 long trọng tuyên dương: “Đội quân Khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940 đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với địch và đã biểu dương ý chí quật cường của dân tộc”.

Khởi nghĩa Nam Kỳ là một mốc son chói lọi, trang sử oanh liệt của miền Nam “đi trước về sau” trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước, báo hiệu thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. 80 năm đã qua nhưng khí thế hào hùng, tinh thần chiến đấu oanh liệt và ý chí quật cường của đồng bào và chiến sĩ trong khởi nghĩa Nam Kỳ mãi mãi là niềm tự hào vang vọng trong lòng mỗi chúng ta, mãi mãi sống  trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta.

Tác giả: Minh Ngọc

Nguồn: Tạp chí VHNT số 444, tháng 11-2020

 

;