Sơn La là tỉnh miền núi, biên giới với địa hình phức tạp và hơn 274km đường biên tiếp giáp Lào, có trên 14.000km² diện tích và cộng đồng dân cư đa sắc tộc. Năm học 2024-2025, toàn tỉnh có 227 trường mầm non và 525 trường phổ thông với gần 365.000 học sinh, trong đó học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm tỷ lệ lớn. Xuất phát từ đặc thù văn hóa - ngôn ngữ và nguyện vọng của đồng bào, tỉnh Sơn La đã lựa chọn đưa tiếng Thái và tiếng Mông vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục phổ thông, các cơ sở hướng nghiệp và đào tạo chính quy trên địa bàn, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các DTTS nói chung và dân tộc Thái, Mông nói riêng.
1. Khái quát về người Thái, Mông ở Sơn La
Sơn La là tỉnh có 12 dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc có phong tục tập quán và bản sắc văn hóa riêng, cư trú xen kẽ nhau, có mối quan hệ khăng khít về chính trị, kinh tế, văn hóa, tạo nên sự phong phú về tiếng nói, chữ viết của các dân tộc. Nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc cũng như phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương, công tác bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của các DTTS luôn được đặc biệt quan tâm. Tỷ lệ người Thái và người Mông chiếm 70% dân số tỉnh Sơn La (trong đó người Thái chiếm 54%, đông dân thứ nhất trong tỉnh Sơn La, người Mông chiếm 16% đứng thứ ba trong tỉnh).
Người Thái cư trú chủ yếu ở các vùng thung lũng, ven các con sông, suối. Trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Thái luôn mang đậm giá trị sáng tạo và khả năng nhận thức về thế giới quan và nhân sinh quan phong phú. Với chữ viết của mình đồng bào Thái đã ghi lại toàn bộ lịch sử dân tộc, các áng thơ văn, tục ngữ, thành ngữ ca ngợi con người tình yêu, quê hương đất nước của mình. Bởi vậy, việc sưu tầm, bảo tồn và phát huy chữ viết cũng như nền văn hóa của dân tộc Thái đã và đang được Bảo tàng tỉnh thực hiện hiệu quả.
Chữ viết của dân tộc Thái là di sản kế thừa từ thành tựu chung của cộng đồng dân tộc Thái, cùng sự sáng tạo của họ trong đó đồng bào Thái ở Sơn La có đóng góp không nhỏ, họ đã sáng tạo cách đánh vần riêng nên rất dễ học. Chữ viết của người Thái viết liền không có dấu chấm, dấu phảy, không có chữ viết hoa. Hơn nữa bộ ký tự chữ Thái ở mỗi địa phương ít nhiều có sự khác biệt. Bộ chữ Thái đã thể hiện tương đối đầy đủ, toàn diện về hệ thống ngữ âm, từ vựng và ngữ nghĩa của ngôn ngữ Thái. Hệ thống sách chữ Thái ghi chép về nhiều lĩnh vực như lịch sử, lễ nghi, phong tục, luật lệ, đạo lý, địa lý, tín ngưỡng, nhân sinh quan, khoa học vũ trụ, văn học… là nguồn sử liệu vô giá nghiên cứu về mọi mặt đời sống, văn hóa, xã hội của dân tộc Thái.
Người Mông có mật độ dân cư tập trung đông đúc tại các huyện vùng cao. Tập quán sinh sống lâu đời của người Mông là ở các bản làng vùng núi cao, giáp biên giới. Người Mông sống quây quần thành các cụm dân cư, dòng họ. Họ duy trì nghề làm nương rẫy, trồng ngô, lúa nương. Mặc dù cuộc sống có nhiều thay đổi theo sự phát triển của xã hội, nhưng người Mông vẫn gắn bó với các bản làng vùng cao. Kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc Mông rất phong phú, cả về vật chất lẫn tinh thần. Sau những biến thiên lịch sử, chữ viết tiếng Mông đã dần bị mai một. Vậy nên nguyện vọng lớn nhất của đồng bào Mông là tìm lại và phổ biến chữ viết trong cộng đồng, nhằm giữ gìn văn hóa và ngôn ngữ của dân tộc. Năm 1961, Chính phủ ban hành Nghị định số 206/CP ngày 27-11-1961 về việc phê chuẩn phương án chữ Mèo (Mông). Kể từ đó chữ Mông đã chính thức ra đời, đáp ứng nguyện vọng của người Mông ở Việt Nam. Hiện nay, người Mông ở Việt Nam sử dụng chữ viết Mông theo ký tự Latinh, bao gồm cả chữ Mông Việt (được phê chuẩn năm 1961) và chữ Mông Latinh hóa (RPA). Việc dạy và học chữ Mông cũng căn cứ trên 2 loại chữ nêu trên.
Thư viện trường học trở thành điểm đến quen thuộc của học sinh DTTS trong các giờ tự học - Ảnh: Hùng Mạnh
2. Thực trạng việc dạy học tiếng DTTS ở Sơn La
Trong giai đoạn vừa qua, việc dạy học tiếng DTTS trên địa bàn tỉnh Sơn La được triển khai sâu rộng đến các trường học trên địa bàn tỉnh. Các cơ sở giáo dục thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Thái, tiếng Mông, ban hành tại Thông tư số 34/2020/TT-BGDĐT; đồng thời cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ theo Quyết định số 142/QĐ-TTg ngày 27-1-2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng Dân tộc thiểu số trong Chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021-2030” và Kế hoạch số 299/KH-UBND ngày 27-12-2022 của UBND tỉnh. 100% các đơn vị trường học đã tiếp nhận, quán triệt và triển khai các văn bản chỉ đạo, tiến hành khảo sát nhu cầu học tiếng dân tộc của học sinh, từ đó xây dựng kế hoạch dạy học hằng năm phù hợp với điều kiện thực tế.
Hiện nay, chỉ có một số lượng ít giáo viên ở các trường Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông đáp ứng yêu cầu về trình độ, chứng chỉ để thực hiện nhiệm vụ dạy môn tiếng DTTS. Trong khi đó, Trường Cao đẳng Sơn La là cơ sở giáo dục đào tạo có đủ điều kiện để thực hiện công tác tổ chức tuyển sinh, đào tạo, cấp chứng chỉ và quản lý hồ sơ đối với đào tạo và cấp chứng chỉ giáo viên dạy tiếng DTTS theo đúng quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tại Thông tư số 09/2023/TT-BGDĐT ngày 18-4-2023 của Bộ GDĐT về Ban hành quy định việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ tiếng DTTS. Tuy nhiên, nhiều nguyên do, số lượng học sinh đăng ký học môn tiếng DTTS ít, do đó chưa có nhiều giáo viên đăng ký đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 2016 đến nay (năm 2025), tỉnh mới mở được 2 lớp Bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng DTTS (tiếng Thái) với 61 học viên (năm 2016: 40 học viên, năm 2018: 21 học viên). Hiện có 44 học viên đang công tác tại các cơ sở giáo dục, số còn lại đã nghỉ hưu.
Theo báo cáo của Sở GDĐT tỉnh Sơn La, hầu hết cơ sở vật chất, thiết bị dạy chữ DTTS là trang thiết bị sẵn có trong nhà trường. Tức là dạy tiếng Việt như thế nào thì dạy tiếng DTTS như vậy. Về cơ bản, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học phổ thông hiện có đã đáp ứng mức tối thiểu để tổ chức dạy - học tiếng của học sinh như phòng học riêng, bảng, thiết bị trình chiếu tại các điểm trường trung tâm… Tuy nhiên, các cơ sở đào tạo còn thiếu những thiết bị đặc thù: Danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cho môn tiếng Dân tộc thiểu số theo Thông tư 01/2025/TT-BGDĐT chưa được trang bị đầy đủ; thiếu học liệu trực quan, tư liệu âm thanh – hình ảnh chuẩn hóa.
Về kết quả: năm học 2022-2023, tỉnh có 3 trường tổ chức dạy tiếng Thái, gồm 20 lớp, 562 học sinh. Năm học 2023-2024 có 1 trường dạy tiếng Mông với 2 lớp: 45 học sinh; 3 trường dạy tiếng Thái, 8 lớp, 197 học sinh. Năm học 2024-2025, do yêu cầu học tăng cao, tỉnh có 14 trường tổ chức dạy học với 25 lớp tiếng Thái (5 trường tiểu học: 12 lớp; 9 trường Trung học và Trung học cơ sở: 13 lớp) với 622 học sinh (lớp 1: 20 lớp/527 học sinh; lớp 5: 5 lớp/95 học sinh); 14 giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Như vậy, quy mô dạy và học tiếng DTTS ở Sơn La giai đoạn 2022-2025 có xu hướng mở rộng ổn định, số trường, lớp, số lượng học sinh tăng qua từng năm; mô hình tổ chức lớp học được kiểm chứng thực tiễn, tạo nền tảng sẵn sàng cho giai đoạn 2026-2030.
3. Những nhận định sơ bộ và đề xuất
Về nhu cầu, kết quả khảo sát của tỉnh Sơn La cho thấy nhu cầu học tiếng DTTS trong giai đoạn 2025-2030 rất lớn và có tính khả thi cao.
Báo cáo của đơn vị này cho thấy: đến năm học này, toàn tỉnh có trên 100 cơ sở giáo dục, bao gồm cả Tiểu học, THCS, THPT, PTDTNT, TTGDTX đã đăng ký triển khai dạy học tiếng DTTS. Số lượng học sinh đăng ký học lên tới hơn 63.000 học sinh. Việc dạy và học ngôn ngữ của đồng bào DTTS nhận được sự đồng thuận xã hội rất cao. Phụ huynh và cộng đồng đánh giá cao việc đưa tiếng DTTS vào dạy học, coi đây là nhu cầu thiết thực nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, đồng thời nâng cao khả năng học tập của học sinh vùng DTTS.
Tuy nhiên, báo cáo của tỉnh cũng chỉ ra sự thiếu hụt nguồn nhân lực giáo viên, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng. Qua ràsoát,toàn tỉnh hiện có 44 giáo viên đã được cấp chứng chỉ/ hoặc mới chỉ qua lớp bồi dưỡng giảng dạy tiếng Thái, tiếng Mông; lực lượng giáo viên người dân tộc Thái, Mông đang giảng dạy tại các trường phổ thông là nguồn nhân lực tiềm năng để tiếp tục bồi dưỡng, bổ sung.
Tỉnh Sơn La hiện có 1 cơ sở đào tạo là Trường Cao đẳng Sơn La có đủ điều kiện để tổ chức bồi dưỡng, cấp Chứng chỉ đào tạo giáo viên dạy tiếng DTTS (tiếng Thái, tiếng Mông) cho giáo viên, bảo đảm cung ứng nguồn nhân lực kịp thời cho nhu cầu mở rộng quy mô dạy học.
Ngoài ra, Bộ GDĐT đã phê duyệt sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn dạy học tiếng Thái, tiếng Mông cấp tiểu học; dự kiến cuối năm 2025 sẽ chuyển giao cho tỉnh. Đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính thống nhất, khoa học trong triển khai chương trình.
Như vậy, nhu cầu học tiếng DTTS giai đoạn 2025-2030 trên địa bàn tỉnh Sơn La vừa lớn, vừa chính đáng, vừa có tính bền vững lâu dài. Việc dạy và học tiếng DTTS ở Sơn La cũng đáp ứng đầy đủ yêu cầu tại Điều 3 Nghị định 82/2010/NĐ-CP ngày 15-7-2010 của Chính phủ. Tuy nhiên, trước nhu cầu tăng cao, để đáp ứng được nội dung chương trình, thời gian tới Sơn La cần đẩy mạnh công tác đào tạo giáo viên; xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo cả cán bộ giảng dạy và học viên; tổ chức tuyển sinh; kiểm tra, đánh giá việc học và cấp chứng chỉ; bổ sung nguồn kinh phí; cơ sở vật chất…
Việc đưa tiếng DTTS vào dạy học tại tỉnh Sơn La là yêu cầu cấp thiết và phù hợp. Nó vừa góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, vừa góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi. Việc dạy ngôn ngữ cho học sinh, đặc biệt là học sinh người DTTS đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục và tác động tích cực đến yếu tố phát triển bền vững trong vùng đồng bào DTTS trên địa bàn.
NGHIÊM HUỆ* - HÙNG MẠNH**
* Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc và Tôn giáo
** Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
____________________
Tài liệu tham khảo
1. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Sơn La, Báo cáo về việc đảm bảo các điều kiện để đưa tiếng dân tộc thiểu số vào dạy học tại tỉnh Sơn La, 9-2025.
2. Trường Cao đẳng Sơn La, Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2024-2025 và phương hướng nhiệm vụ năm học 2025-2026, 7-2025.
3. Cục Di sản Văn hóa, Chữ viết cổ của người Thái, dsvh.gov.vn.
4. Phương Anh, Nâng vị thế chữ viết cho người Mông, giaoducthoidai.vn, 19-10-2019.
5. Tạ Văn Thông, Tạ Quang Tùng, Chữ Thái ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 4, 2020.
6. Nguyễn Trung Kiên, Dân tộc Mông ở Việt Nam và một số vấn đề về ngôn ngữ, Tạp chí Khoa học xã hội, số 9, 6-2017, tr.8-16.
.png)



.jpg)

.jpg)
