Vai trò của sắc phong trong xây dựng đời sống văn hóa làng xã ở Huế

Sắc phong - văn bản do triều đình quân chủ ban cấp để xác nhận công lao, thần vị và tư cách thờ tự, là một loại hình di sản Hán Nôm có giá trị đặc biệt. Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử cũng như sự bào mòn của thời gian, nhiều sắc phong cổ vẫn còn đó và được ví như những “báu vật” nơi các làng quê và thường được bảo tồn lưu giữ tại các kiến trúc tín ngưỡng của làng xã.

Sắc phong vua Đồng Khánh tại đình làng Khuông Phò

“Căn cước” của làng

Huế được xem là trung tâm văn hóa, tôn giáo và tín ngưỡng lớn của Việt Nam, đặc biệt từ khi trở thành kinh đô triều Nguyễn, các làng xã nơi đây không chỉ mang dấu ấn của kiến trúc đình, chùa, miếu mạo mà còn lưu giữ nhiều sắc phong do các triều vua ban tặng. Sắc phong trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa – tinh thần, không chỉ là minh chứng lịch sử mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố đời sống văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng, tạo nên mối liên kết giữa lịch sử triều đình và cộng đồng dân cư cơ sở.

Sắc phong với vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa làng xã, là chứng tích lịch sử và tính chính danh của sắc phong khẳng định sự tồn tại và vị thế của làng xã trong cơ cấu hành chính – xã hội xưa. Các vị thành hoàng, thần linh được triều đình công nhận chính danh thông qua sắc phong, từ đó lễ hội làng được tổ chức quy củ, mang tính chính thống. Trong tâm thức dân gian Huế, sắc phong là vật thiêng liêng, được lưu giữ trang trọng tại đình, chùa làng, nhà thờ họ, việc rước sắc, tế thần trong các dịp lễ hội trở thành nghi thức trọng đại, quy tụ sự tham gia đông đảo của dân làng, qua đó củng cố tình đoàn kết và bản sắc văn hóa cộng đồng.

Đình làng Khuông Phò, xã Quảng Điền, thành phố Huế

Đến nay, sắc phong còn lại ở các đình, chùa trên địa bàn các làng xã phân bố không đồng đều, có làng xã đã không còn, có làng xã thì được giữ gìn gần như nguyên vẹn. Phần lớn các đạo sắc phong được lập dưới thời các triều vua nhà Nguyễn. Sắc phong trên địa bàn thành phố Huế có hai loại chính, loại thứ nhất là sắc phong nhân vật do nhà vua các triều đại quân chủ dùng để phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công, loại này thường do các dòng họ, gia đình lưu giữ nên ít phổ biến ra công đồng và khó tiếp cận. Loại thứ hai là sắc phong thần  (có thể nhiên thần, thiên thần hoặc nhân thần) là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã nên thường được cất giữ tại các đình, chùa, đền, loại sắc phong này còn được bảo tồn khá nhiều ở các làng, xã.

Các sắc phong thường được viết trên giấy “Long đằng” hình chữ nhật màu vàng nhạt hoặc màu vàng đậm tùy vào mỗi triều đại, kích thước dài 130cm, rộng 60cm. Hình thức, hoa văn trang trí theo mẫu quy định của  triều đình, nội dung sắc phong chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, tên gọi của thần, lý do thần được ban sắc hoặc nâng cấp phẩm trật, trách nhiệm của thần đối với dân sở tại, trách nhiệm của dân đối với thần, sau đó là thời gian phong sắc, niên hiệu và đóng quốc ấn của triều đình. Cũng trong đạo sắc phong, nhà vua giao cho các vị thần che chở bảo hộ con dân của ngài và cho phép các địa phương chính thức tôn thờ những vị thần bản địa của mình.

Đối với mỗi làng xã, sắc phong thần là nguồn tư liệu quý và linh thiêng vì gắn liền với lịch sử và đời sống tâm linh của người dân. Những vị thần và những người được vua phong thần thông qua sắc phong đã được người dân tín ngưỡng, thờ phụng. Đồng thời, niên đại được ghi trên sắc phong là niên đại chính xác, cho phép khẳng định rõ ràng lịch sử lập làng, lịch sử hình thành dân cư, dòng họ, lịch sử khai khẩn. Chính vì thế, sắc phong cũng có ý nghĩa như một văn bia hay “thẻ căn cước” của làng.

Phát huy giá trị của sắc phong trong xây dựng đời sống văn hóa tại cơ sở

Sắc phong là văn bản tư liệu cao quý do Hoàng đế ban hành, nội dung của sắc phong thường ca ngợi công đức thần linh, trung hiếu, tiết nghĩa, hộ quốc an dân. Do vậy, gia tộc, làng xã nào được ban cấp sắc phong  thì trước hết đó là niềm tự hào, vinh dự to lớn cho gia tộc, làng xã ấy. Đây chính là nguồn tư liệu giáo dục đạo lý, khích lệ tinh thần hướng thiện, sống có trách nhiệm với cộng đồng – những giá trị vẫn còn nguyên ý nghĩa trong đời sống đương đại.

Lễ rước sắc phong làng Khuông Phò

Qua khảo sát tại một số làng xã trên địa bàn thành phố như, đình Nghĩa Lập (xã Phú Gia, Phú Vang) 22 đạo sắc phong, đình Khuông Phò (thị trấn Sịa, Quảng Điền) 47 đạo sắc phong, chùa Uất Mậu (thị trấn Sịa, Quảng Điền) 22 sắc phong, chùa Hà Cảng (xã Quảng Phú, Quảng Điền) 22 sắc phong, đình Phú Lễ (xã Quảng Phú, Quảng Điền) 27 sắc phong… được giao cho hội đồng tộc trưởng của làng quản lý, bảo quản cẩn thận ở những nơi tôn nghiêm, cho thấy tầm quan trọng của sắc phong thể hiện những giá trị về văn hóa và tâm linh. Nhiều làng xã do chiến tranh, thiên tai bị mất đi sắc phong thì người dân cảm thấy như mất đi phần hồn của làng và đời sống tâm linh bị ảnh hưởng. Chính vì thế, việc giữ gìn sắc phong như một trách nhiệm lớn để giữ lại sự linh thiêng, mạch nguồn kết nối giữa quá khứ và tương lai trong mỗi cộng đồng.

Đình Khuông Phò (thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền cũ) nay là xã Quảng Điền, thành phố Huế gắn với một ngôi làng cổ có lịch sử hình thành trên 500 năm, người dân tự hào về ngôi đình có kiến trúc đẹp, độc đáo nơi đang cất giữ 47 đạo sắc phong do các vua triều Nguyễn ban tặng cùng nhiều văn tế, địa bạ quan trọng khác. Các làng xã coi sắc phong là bảo vật, dân làng quyết tâm gìn giữ đến cùng với tinh thần “làng còn thì sắc phong còn”. Nếu một cá nhân, đơn vị nào muốn tiếp cận sắc phong thì phải được sự đồng ý của hội đồng tộc trưởng, trước sự chứng giám của các ban, hội của làng, hội đồng tộc trưởng thắp hương, xin phép tổ tiên mới được đưa sắc phong ra khỏi “hòm ơn” hoặc có sự việc quan trọng mới được thỉnh xuống. Điều đó, chứng tỏ sắc phong có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, tinh thần, tình cảm của người dân.

Để tri ân công đức của tổ tiên, các vị khai canh khai khẩn, những người có công với làng xã, cầu cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà an nhiên, cứ 5 năm một lần đình Khuông Phò (xã Quảng Điền), đình Nghĩa Lập (xã Phú Vang) và một số làng xã khác tổ chức rước sắc phong với quy mô toàn dân và con em ở các địa phương trong và ngoài nước về dự. Nghi lễ rước sắc phong là  nghi thức cổ truyền theo văn tế của làng được truyền lại, có sự tham dự của chính quyền địa phương. Nghi lễ được thực hiện theo hai phần, phần lễ và phần hội, phần hội gồm có các hoạt động như: lễ trao học bổng cho con em học giỏi trong các dòng họ, lễ hội đua trải, ca Huế và các hoạt động văn hóa thể thao cùng với đó công tác vệ sinh, trang trí được thực hiện nề nếp tạo nên cảnh quan sạch đẹp, văn minh trên từng đường làng, ngõ xóm. Giữ gìn, trân trọng giá trị của sắc phong, thể hiện niềm tin của nhân dân đối với bách thần không phải là niềm tin mù quáng mà chính là động lực, sức mạnh tinh thần to lớn giúp cố kết muôn dân trong buổi đầu khai hoang lập làng và xây dựng cuộc sống mới, giúp người dân sống tốt hơn với làng, với nước. Việc thần linh ở mỗi làng được ban cấp sắc phong qua từng triều đại thể hiện niềm tự hào của con dân các làng xã đối với truyền thống quý báu của vùng đất nơi mình sinh ra, cũng cố khối đoàn kết toàn dân, vừa gìn giữ nề nếp gia phong của làng. Thông qua nghi lễ rước sắc phong nhiều nghi lễ, âm nhạc cổ truyền tưởng chừng bị thất truyền đã được khôi phục như: Đội kèn truyền thống, nghi thức đi xài, các loại hình thức diễn xướng theo các văn tế truyền lại được bảo tồn, phục dựng. Việc bảo tồn, gìn giữ và tổ chức lễ hội về sắc phong giúp cho các nhà quản lý, nhà nghiên cứu nắm rõ tiến trình phát triển tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng nói riêng và các vị thần nói chung, tầm ảnh hưởng của một vị thần linh cụ thể đối với từng địa phương, góp phần nhận diện đặc trưng văn hóa Huế trong bức tranh văn hóa Việt Nam.

Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sắc phong trong đời sống làng xã trên địa bàn thành phố Huế, công tác bảo tồn và phát huy sắc phong ở Huế đang còn hạn chế, nhiều làng xã vẫn lưu giữ được sắc phong nguyên vẹn, song cũng có không ít sắc phong bị thất lạc, hư hỏng do thời gian, chiến tranh và điều kiện bảo quản hạn chế. Sở Văn hóa và Thể thao, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và các đơn vị liên quan đã hỗ trợ cộng đồng các làng xã  trong việc phục dựng nghi thức rước sắc, số hóa và trưng bày tại bảo tàng hoặc đình làng. Tuy nhiên, công tác bảo tồn còn gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh phí, nhân lực chuyên môn, và nhận thức cộng đồng chưa đồng đều.

Sắc phong không chỉ là di sản vật chất mà còn là biểu tượng tinh thần, góp phần định hình và duy trì đời sống văn hóa – tín ngưỡng ở các làng xã trên địa bàn thành phố Huế. Gìn giữ và tôn vinh sắc phong chính là giữ gìn di sản văn hóa tốt đẹp của các làng xã, sắc phong trở thành điểm tựa tinh thần để mỗi người dân dù ở vị trí nào đều thấy bản thân mình như một phần ở trong đó. Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo tồn và phát huy giá trị của sắc phong cần được gắn với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, kết hợp với du lịch văn hóa và giáo dục truyền thống, để sắc phong tiếp tục giữ vị trí xứng đáng trong dòng chảy văn hóa Huế.

HẰNG NGUYỄN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 625, tháng 11-2025

;