Tuồng cổ ở Thổ Hà

Làng Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên (Bắc Giang) không chỉ nổi tiếng bởi lối chơi Quan họ độc đáo bên bờ Bắc sông Cầu mà còn là nơi duy nhất ở Bắc Giang còn giữ được nghệ thuật Tuồng cổ. Tuy vậy, trước sự lấn át của các loại hình nghệ thuật mới, những người yêu Tuồng nơi đây không khỏi trăn trở về số phận của môn nghệ thuật truyền đời này.

 

Những ông tướng mặt đỏ như gấc, râu dài tới ngực, áo quần lộng lẫy sắc màu hết nhảy múa lại gào thét, quát tháo ầm ĩ trên sân khấu trong tiếng nhạc kịch bi hùng, ai oán đến thảm thương trong vở Tuồng Bá đao Diệm Thiên Hùng đã để lại ấn tượng với không ít người đến dự lễ hội truyền thống của làng Thổ Hà.

 “Phi Tuồng bất thành hội” là câu nói cửa miệng xưa nay của người dân trong ngôi làng nhỏ nằm nép mình ven sông Cầu - Thổ Hà. Có lẽ vì vậy mà năm nào làng mở hội (vào ngày 20, 21 tháng Giêng) đều tổ chức diễn kịch Tuồng kín lịch cả hai đêm. Chẳng ai còn nhớ nghệ thuật Tuồng có ở đây từ khi nào, chỉ biết rằng hết đời này qua đời khác, người dân nơi đây vẫn trao truyền cho nhau từng kịch bản, tích truyện, trang phục, vai diễn cho đến cách hóa trang, điệu bộ, cử chỉ riêng của Tuồng... Dẫn tôi đi một vòng quanh mấy ngõ nhỏ chật hẹp được phơi kín bởi những dàn bánh đa nem kêu lách tách đang hanh khô đến độ, ông Trịnh Quang Liêm - Phó thôn cho biết: “Xưa kia, lứa tuổi như tôi ở làng này ai cũng biết một chút về Tuồng, buổi tối mọi người thường tụ tập ở sân đình uống trà rồi diễn Tuồng cho bà con thưởng thức đến tận khuya. Dù không được học bài bản nhưng vì nghe nhiều, xem nhiều đâm ra không ít người đã thuộc lòng từng vở diễn, điệu bộ, làn điệu và cách thể hiện trong các vở Tuồng đã làm nên tên tuổi ở Thổ Hà như Triệu Đình Long cứu chúa; Đào Tam Xuân; Ngự đệ Kim Hùng, Bá đao Diệm Thiên Hùng… Những cụ diễn Tuồng có tiếng ở đây là các kép hạng Nguyễn Đức Dĩ, Trịnh Xuân Tiện, Nguyễn Đình Xuyến… Các cụ ấy đều đã “quy tiên” cả nhưng mọi bí quyết về Tuồng đã kịp trao gửi cho hậu thế. Năm 1987, các cụ đã vận động lớp trẻ thành lập câu lạc bộ Tuồng Thổ Hà do chính các cụ dìu dắt và truyền dạy”, ông Liêm kể.

Con ngõ nhỏ xíu chỉ vừa đủ cho hai người đi bộ tránh nhau đưa tôi và ông Trịnh Quang Liêm đến nhà ông Nguyễn Công Sơn, Phó chủ nhiệm CLB Tuồng Thổ Hà. “Ông Sơn là người đã hết lòng vun đắp cho nghệ thuật Tuồng của quê hương suốt mấy chục những năm qua”, ông Liêm cho biết. Bước qua mấy bậc thềm cao tới gần nửa mét của ngôi nhà bầy biện đủ thứ đồ lỉnh kỉnh, chúng tôi đã nghe tiếng hát Tuồng nỉ non trên sân thượng, người đàn ông 62 tuổi đang giúp vợ phơi nốt mẻ bánh vừa tráng xong. Biết có người muốn nói chuyện về Tuồng, ông mừng lắm, để mẻ bánh đang phơi dở dang, xuống thay bộ quần áo khác chỉn chu rồi pha ấm trà ngồi giữa nhà tiếp khách. 

Những người cao tuổi ở Thổ Hà đều cho rằng, nghệ thuật Tuồng tại đây còn giữ được nhiều yếu tố truyền thống do không bị “đứt quãng”. “Tre già măng mọc”, lớp trước dạy lớp sau nên hầu hết lối diễn cổ chưa bị mai một. Không chỉ xuất hiện trên sân khấu, các nhân vật Tuồng còn là “điểm nhấn” trong nghi lễ rước của lễ hội Thổ Hà hằng năm, trong đó có hơn hai mươi vai đóng thế được trang điểm khá cầu kỳ như: Tổng cờ, Tổng Kiếm, Tam Đa, Tiên đồng, Ngọc nữ…  Nói về nghệ thuật Tuồng, ông Sơn cho biết thêm: Tuồng được xem như là sân khấu của những người anh hùng, nếu không có sức khỏe thì không thể diễn được Tuồng và ngược lại nếu diễn thường xuyên thì rất có lợi cho sức khỏe. Từng điệu bộ, uốn éo, thao tác diễn tuồng rất khó thể hiện, đơn cử động tác như vuốt râu, chèo cây, múa kiếm, chèo đò cưỡi ngựa… sao cho thật giống để người xem liên tưởng như là thật ngoài đời. Ví dụ như trong vở Đào Tam Xuân, khi Đào Tam Xuân nghe tin con trai mình tử thương nơi chiến trận, diễn viên tạo ra được kịch điểm của mẫu thuẫn, phải bứt lên thành cao trào của nỗi niềm đau khổ, uất ức, như thúc giục sự báo thù, lấy oán trả oán, hờn căm mà xót thương khiến người nghe như thấy tiếng ai oán, uất hận, xót thương.

Về phần nội dung, Tuồng thường lột tả những hoàn cảnh đầy mâu thuẫn, xung đột và bi ai, các nhân vật chính diện luôn phải vươn lên thoát khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh. Họ hành động một cách dũng cảm và trở thành một hình mẫu, một bài học cho người đời ngưỡng mộ noi theo. Vì vậy, diễn viên phải lột tả hết thần thái, tính cách nhân vật và để làm được điều đó không có con đường nào hơn là phải khổ luyện.

Một thực tế đáng suy nghĩ là, làng Thổ Hà còn hàng chục người biết diễn Tuồng nhưng thực chất chỉ chưa đến 10 người thường xuyên tham gia CLB. Bởi ngoài việc phải tự túc kinh phí hoạt động, theo “nghiệp” Tuồng họ còn tốn khá nhiều thời gian nên không ít người đã đành lòng xa rời nó. Mặc dù vậy, vẫn còn một số người không nỡ để nghệ thuật truyền thống của làng bị chìm vào quên lãng nên vững lòng bám trụ và vượt qua những lời đồn đoán đầy liêu trai, trong đó ngoài ông Nguyễn Công Sơn còn các ông: Phạm Tiến Tuấn, Trịnh Đăng Thời, Trịnh Đăng Đàm…

Hơn 20 năm diễn Tuồng, được mời công diễn ở nhiều nơi như Bắc Ninh, Hà Nội đã giúp ông Sơn nhận ra một điều rằng, Tuồng là môn nghệ thuật “không hề đơn giản” bởi nó không chỉ kén người diễn mà còn kén cả người xem. Xưa kia, Tuồng để mua vui cho vua quan trong những buổi yến tiệc hội hè và dùng cả trong những buổi tế lễ, thiết triều. Trong Tuồng, nam diễn viên gọi là "kép", gồm có kép văn, kép võ, kép rừng, kép đen, kép trắng, kép anh, kép em, kép trạng nguyên, kép nghèo (hàn sĩ, hàn nho…). Nói về độ khó của Tuồng, ông Sơn cho hay: ngôn ngữ hát Tuồng đa phần là Hán - Việt hoặc những từ ngữ triết lý, bác học, văn chương theo lối ẩn dụ. Hầu hết các tích Tuồng đề xoay quanh các đề tài, nhân vật trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc, trong đó chiếm được cảm tình của người xem nhất vẫn là các đề tài “phò vua diệt ngụy”; “trung thành - phản nghịch”… Nó mang âm hưởng hùng tráng, những tấm gương tận trung báo quốc, những bài học về đạo làm người. Ngoài ra, các điệu cơ bản của Tuồng như ngâm, vịnh, thán oán, nam thương, xuân nữ, bạch, xướng, nam bình, khách... đều dùng các thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn, Đường luật, thơ lục bát và phú khá chặt chẽ. Điểm khó nữa của Tuồng là cách hóa trang với những quy ước chặt chẽ theo một số mẫu chung, vai “trung” mặt đỏ, râu dài; vai nịnh mặt rằn, râu ngắn; mặt trắng là người có diện mạo đẹp, tính cách trầm tĩnh; mặt đỏ là người trí dũng, chững chạc; mặt tròn xéo đen là tướng phản; hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy; mặt lưỡi cày là người đoản hậu, nhát gan... Từ những cái khó trên, người yêu Tuồng ở Thổ Hà không khỏi trăn trở về số phận của môn nghệ thuật truyền thống này khi chưa tìm được lớp kế nghiệp. Điều mà họ mong muốn hiện nay là địa phương sớm có cơ chế đầu tư để khôi phục, mở rộng mô hình CLB hát Tuồng, trong đó chú trọng việc truyền dạy cho lớp trẻ.

 

ĐÔNG KHÁNH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 507, tháng 8-2022

 

;