Trấu ơi…

Bạn tôi nói, ở phố cái gì mà chẳng mua được, chỉ sợ mình không có tiền thôi, ấy vậy mà tôi đã tìm “đỏ mắt” cũng chẳng thấy nơi nào bán trấu. Có chăng phải đi tít thật xa tới vùng ngoại ô, nơi tập trung nhiều nhà máy xát lúa thì may ra mới thấy trấu. Mà mua trấu để làm gì cơ chứ? Bạn tôi thắc mắc. Tôi mỉm cười đáp lại bạn, rằng nhớ trấu thì mua thôi.

Ảnh minh họa

 

Có lẽ giới trẻ bây giờ ít ai biết, để ý tới trấu, nhưng đối với thế hệ 8x của chúng tôi trở về trước, sinh ra lớn lên ở nông thôn thì trấu chẳng hề xa lạ mà thân quen như những bạn của nhà nông. Trấu là phần vỏ của hạt lúa sau khi được xát ra. Tôi nhớ, ngày ấy, mỗi lần đi xát lúa, lúc về trên xe hoặc trên đôi quang gióng của mẹ lúc nào cũng có hai chiếc tải. Một tải mẹ đựng gạo, tải còn lại đựng trấu. Mà hầu như nhà nào cũng thế, xát lúa đều tận dụng trấu mang về. Trấu dùng để đun nấu, để ủ cho đất tơi xốp và cũng để làm nơi cho gà, vịt nằm được ấm hơn, thay rơm rạ vào mùa đông giá rét.

Ở phía bên phải chái bếp, ba tôi xây một ô vuông, đó là nơi tập kết trấu mỗi khi đi xát lúa về. Song song với củi thì trấu cũng được mọi người trữ để nấu nướng. Hồi đó chưa có bếp gas, bếp điện như bây giờ, chi có chiếc kiềng thép ba chân, hoặc tuềnh toàng hơn thì được đặt ba viên gạch, đá thật chắc làm kiềng. Mỗi lần nấu, chỉ cần rải một lớp trấu dưới bếp, chất củi xung quanh, thêm một mồi lửa là củi cùng trấu bén và cháy rất đượm.

Những ngày mùa đông rét mướt, thêm mưa rắc rải khiến cái lạnh lại càng buốt hơn. Dẫu trong bếp không nấu nướng gì, mẹ tôi cũng nhen bếp lửa, thêm mấy vốc trấu để giữ than được lâu hơn. Ngồi không thì buồn tay buồn chân, hai chị em chạy vào xó nhà lấy củ khoai, khúc sắn lùi vào lớp trấu hồng, vừa hơ tay trước lửa vừa hóng khoai, sắn chín. Khoai, sắn ủ dưới lớp trấu lúc chín bở thơm phưng phức. Lúc ăn thì mùi trấu vương vất, thoảng thơm nhè nhẹ.

Cũng vào những ngày mưa, đông đến mỗi gốc cây mẹ đều rải một nhúm trấu vây quanh. Mẹ bảo làm như thế để cây được giữ ấm, đất được phần nào tơi xốp hơn. Ký ức của tôi cũng đã tưởng chừng như quên đi những vụn trấu cho đến khi thu hoạch những bắp cải, những trái cà tím mướt xanh bàn chân chạm phải vỏ trấu thì lòng lại thương nhớ chúng vô cùng. Những chiếc vỏ trấu bé xíu tưởng chừng như vô dụng ấy vậy mà có công dụng to lớn đến bất ngờ. Đem nỗi lòng sẻ chia với mẹ, mẹ rằng mỗi vật sinh ra đời đều có một sứ mệnh riêng của nó, đều có ý nghĩa và mục đích dẫu là cái cây to lớn hay những vỏ trấu vụn li ti.

Bà tôi thì lại có cách sử dụng vỏ trấu rất tuyệt vời mà đến bây giờ tôi nghĩ nó vẫn không “lỗi thời” khi áp dụng theo. Ví như bà muốn làm sạch phần nhớt trên da của lươn, chạch mà lấy một vốc trấu hun lên làm tro rồi dùng tro đó vò, vuốt thật mạnh vào phần da, chẳng mấy chốc mà da lươn, chạch sạch bong. Hay một cách khác, bà cũng dùng tro trấu để chà xát rửa ấm chén, xoong nồi. Tuy có phần lách cách cực hơn chút xíu nhưng lại đảm bảo an toàn không lo phần hóa chất.

Những ngày xưa thân thương tưởng chừng mới đó vậy mà cũng đã mấy chục năm trôi qua. Ba mẹ tôi giờ đây không còn đủ sức để trồng lúa nữa, vô tình những rạ rơm, trấu trong nhà tôi cũng ít được thấy. Những bếp gas, bếp điện cũng được thay thế bằng bếp củi chẳng mấy ai dùng bếp củi, bếp trấu nữa. Còn tôi thì không thôi nào lòng nhớ về trấu, như một người bạn thân thương thuở nhỏ, nhiều lúc mộng mị tôi thấy mình thốt lên: Trấu ơi!

 

TĂNG HOÀNG PHI

Nguồn: Tạp chí VHNT số 591, tháng 12-2024

;