Với 10 tác phẩm đã xuất bản, trong đó có 4 tập thơ Bay lặng im (2008), Mây trắng (2011), Thanh không (2023), Trên con đường tóc (2025), nhà thơ Trang Thanh được xem là một trong những giọng thơ nữ cá tính, giàu tư duy, đã định danh được một lối thơ riêng. Trên con đường tóc - tập thơ mới nhất của chị mở ra những ý niệm trong nỗ lực giải mã chính mình cũng như gửi gắm những thông điệp về tự do và cái tôi nữ quyền.

Kiến tạo một thi giới nhất quán
Nhà thơ Trang Thanh (sinh năm 1974, quê Nam Định), tốt nghiệp Khoa Văn - Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, hiện đang công tác với vai trò Biên tập viên tại Nxb Hội Nhà văn. Chặng đường thi ca của chị được đánh dấu bằng sự nhất quán trong cảm hứng và sự phát triển trong bút pháp, từ sự u uẩn, khúc triết ban đầu đến chiều sâu triết lý và sự phóng khoáng siêu hình ở các tập thơ sau.
Tập thơ đầu tay Bay lặng im (2008), từng đoạt giải Lá Trầu danh giá năm đó, đã nhanh chóng xác lập giọng điệu độc đáo của Trang Thanh. Nhà thơ Nguyễn Bình Phương nhận định rằng đó là “một cái tôi hơi chút u uẩn, hơi sầu muộn hiện diện qua giọng thơ khúc triết, đầy sức lôi cuốn”. Ngay từ tập thơ này, ba mạch viết chính trong thi giới Trang Thanh đã được định hình: ký ức, tình yêu và phận người. Sự chấp nhận “bay lặng im” không phải là sự khuất phục mà là một thái độ kiêu hãnh và bình tĩnh trước đời sống, giúp thơ chị vượt ra khỏi khuôn khổ tự sự cá nhân để đạt tới “nghĩa đích thực nhất, cổ điển nhất” của thơ ca.
Mây trắng (2011) là tập thơ được viết trong những xúc cảm riêng tư nhưng vẫn tiếp nối mạch nguồn ký ức về cha mẹ và tuổi thơ. Tập thơ như một sự chuyển giao, nơi cảm xúc riêng tư lắng lại để chuẩn bị cho sự bùng nổ tư duy và ngôn ngữ sau này.
Tập Thanh không (2023) đánh dấu bước trưởng thành quan trọng, nơi tác giả “đã định danh được một lối thơ rất riêng trong dòng chảy của thi ca Việt Nam đương đại”. Tập thơ không chỉ là nguồn cơn của buồn đau, cuồng yêu hay cô đơn mà là sự xác lập cái tôi đầy tư duy và cá tính trong ngôn ngữ. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm nhận định: “Thanh không là địa hạt bí nhiệm, là nơi nỗi buồn đau âm thầm khép cửa, nhưng trên hết là sự dâng hiến và tái sinh, nơi cái tôi không chấp nhận sa lầy vào “ao tù” khổ đau và tuyệt vọng. Trang Thanh trong tập thơ này là một người biết “chơi với ngôn ngữ”, tự tin, kiêu hãnh và rất “đàn bà” khi viết về tình yêu: “chúng ta xiết chặt tay nhau hơn/ soi trong mắt đau nỗi ly biệt của mùa đông âu lo sợ hãi/… em ơi đừng day dứt nữa/ chúng ta sẽ mang theo/ trước mặt chúng ta còn bí ẩn những khu vườn” (Trong cơn khát của mùa thu). Thanh không là minh chứng cho ý thức kiến tạo một thi giới nhất quán của Trang Thanh, có căn cốt từ cội nguồn quê hương, thân phận con người và đời sống tinh thần cá nhân.

Trên con đường tóc - Đối thoại với cái Đẹp, tự do và sự vĩnh hằng
Trên con đường tóc (2025) là một mốc mới trong hành trình sáng tạo của Trang Thanh, thể hiện sự dấn thân và suy niệm sâu sắc, rõ nét hơn về thân phận và khát vọng tự do. Tập thơ gồm ba phần liền mạch: Về trong cuộc người, Nỗi đau tỏa hương trên cành gai và Tóc mình viết lên mây. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã tóm tắt hành trình này là: “Từ ký ức và tình thương, qua niềm cay đắng và hóa giải, để cuối cùng vươn đến lý tưởng của cái đẹp”.
Về trong cuộc người - phần mở đầu của tập thơ là sự hồi cố về gốc rễ - nơi có tuổi thơ nguyên sơ, tình mẹ cha, dòng sông và ký ức cánh đồng. Nhà thơ Ngô Đức Hành gọi đây là “hệ sinh thái” hay “bản sonata cánh đồng”, nơi những hình ảnh đời thường như “bóng chim mẹ ngậm mồi bay về tổ” hay “sông bờ này xói lở vệt sâu” không chỉ gợi nhớ mà trở thành nền tảng biểu tượng nuôi dưỡng mạch cảm xúc. Ký ức trong thơ Trang Thanh vượt khỏi giới hạn cá nhân để đạt đến “chiều kích cộng đồng” (Mai Văn Phấn).
Mạch thơ từ ký ức cũng mở rộng sang suy tư nhân loại về thân phận, sự hạn hẹp và ý chí vượt thoát: “thế giới này quá chật chội/ trong mỗi người đều có một ngục tù/ ai hiểu rằng tình yêu và tự do/ những sẻ nâu ngày xưa bị con cầm tù/ cũng chỉ thèm bay im lặng” (Gửi cha). Sự đối lập giữa ràng buộc và ước nguyện làm bật lên sức mạnh bền bỉ của con người.
Phần hai Nỗi đau tỏa hương là sự “dẫn bạn đọc đi vào vùng thẳm của thương tích tinh thần” (Mai Văn Phấn). Nỗi đau, ẩn ức, mất mát và trống rỗng được thổ lộ. Tuy nhiên, thay vì gục ngã, vết thương trở thành điểm khởi phát cho sáng tạo. Đây là hành động giải phóng tinh thần, chuyển hóa thương tổn thành năng lượng và là khả thể nhân bản, theo nhà thơ Mai Văn Phấn.
Sự dày vò và đau thương được “hóa kiếp” để nuôi dưỡng cái đẹp, làm hồi sinh niềm tin. Thơ trở thành nỗ lực tự cứu rỗi, khẳng định thơ ca có thể chữa lành và đưa con người vượt thoát nỗi niềm riêng để chạm tới giá trị nhân bản phổ quát: “vết thương âm hương tháng ba ròng mưa tháng sáu/ gội tóc nàng sen/ đã cất mùa tu thật sâu đáy nước…” (Vết thương của nàng sen).

Phần kết thúc - Tóc mình viết lên mây đưa giọng thơ Trang Thanh lên một tầm cao mới: phóng khoáng, siêu hình, đối thoại với cái đẹp, tự do và sự vĩnh hằng.
Đặc biệt, nhà thơ, dịch giả Đào Quốc Minh đã phân tích sâu Trên con đường tóc dưới lăng kính Mỹ học Nữ quyền (Feminist Aesthetics). Theo anh, thơ Trang Thanh tái định nghĩa Cái thẩm mỹ: Mái tóc rụng, tàn phai không bị coi là hủy diệt mà trở thành chất liệu sáng tạo để dệt nên “con đường vô tận”. Trang Thanh khẳng định cái đẹp có thể xuất phát từ sự mong manh, đau đớn (Carolyn Korsmeyer). Theo đó, nỗi đau là Chất liệu Thẩm mỹ: “Cứ nối dài mãi tựa nỗi đau trong tim đang rỉ máu / Nuôi con đường chạy đến vô cùng”.
Hành động Kháng cự của nhân vật trữ tình “nhón chân múa điệu đơn độc” trên con đường tóc, từ chối trả lời những chất vấn của xã hội (“Còn đau không? Còn buồn không? Sợ hãi nữa không?”). Sự im lặng và vũ điệu là hành động kháng cự tinh thần, là mỹ học của sự giải phóng bản thể. Sự rụng rời, nhỏ bé (tóc rụng) lại mang tính bất tận, mở ra một con đường chung cho những kẻ khác: “Họ hứa rằng ai cũng nhẹ như hơi thở/ Để chạy băng băng trên những con đường tóc rụng/ Từ chính mái đầu nhỏ bé của nàng”. Trải nghiệm cá nhân đã kiến tạo khả thể cộng đồng (Rita Felski).
Thơ Trang Thanh có sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa trữ tình - tự sự - triết lý với các đặc điểm nổi bật. Chị là người biết “chơi với ngôn ngữ”, giàu thi ảnh, hàm ẩn trong biên độ thẩm mỹ sâu rộng. Ngôn ngữ của Trang Thanh vừa khúc triết, trực diện lại vừa kiêu hãnh, sắc sảo. Thơ Trang Thanh luôn xoay quanh ba trụ cột ký ức, tình yêu và thân phận con người (hay nỗi đau và khả năng kháng cự với nỗi đau), tạo nên một thi giới nhất quán xuyên suốt 4 tập thơ. Khả năng “chuyển đổi linh hoạt và luân phiên các chủ thể trữ tình (“anh”, “em”, “nàng”, “chúng ta”, “tôi”...)” (theo Nguyễn Kiến Thọ) là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật. Sự “hướng nam” và “thị hiện thân nam” (theo Hoàng Liên Sơn) là một kỹ thuật bút pháp giúp tác giả chủ động hóa thân để biểu đạt hiệu quả hơn tâm trạng và cảm thức.
Cảm thức Thiền và Hiện sinh: Dù không có chữ “thiền” cụ thể, nhưng thơ Trang Thanh chất chứa hành trình tĩnh lặng, khơi gạn lắng trong để đối diện với thân phận. Sự ám ảnh về chữ “kiếp” (“kiếp sau người ta có được yêu nhau không cha?”) thể hiện hành trình trở về “trực diện với nỗi đau và khát vọng hiện sinh” (theo Nguyễn Việt Chiến), nơi nỗi buồn được “hóa kiếp” để “lớn lên dịu dàng nở hoa trên cỏ”.

Trang Thanh đã tạo ra một giọng điệu riêng biệt, giàu tư duy và cá tính, thoát khỏi những lối mòn cảm xúc thông thường của thơ nữ, góp phần kiến tạo Mỹ học Nữ quyền Việt Nam. Trên con đường tóc là minh chứng cho việc áp dụng mỹ học nữ quyền trong thi ca một cách sắc sảo và nghệ thuật. Chị tái định nghĩa cái đẹp không phải ở sự toàn vẹn mà ở sự mong manh, rụng rời, biến nỗi đau thân phận nữ giới thành khả năng sáng tạo, kháng cự và giải phóng thẩm mỹ. Điều này giúp thơ chị đồng điệu với tiếng nói học giả nữ quyền phương Tây, nhưng vẫn giữ được chất giọng u uẩn mà trong trẻo độc đáo của thi ca Việt.
Theo nhà thơ Thiên Sơn, Trang Thanh không chỉ là một nhà thơ đi tìm những vần điệu cho nỗi đau, mà là một nghệ sĩ đích thực, hướng đến cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp bằng nghệ thuật ngôn từ đặc sắc.
Hành trình thơ Trang Thanh vận động theo một vòng cung từ gốc rễ đến thương tích rồi siêu thoát, khẳng định “con người có khả năng hoán cải đau thương thành vẻ đẹp” (Mai Văn Phấn) và khơi mở ước nguyện vươn tới miền tự do tinh thần. Thơ chị là “kết tinh của quá trình dấn thân”, cân bằng giữa hữu hạn và vô hạn, giữa cái mong manh của kiếp người và sức bền nội tại của tâm hồn, vang vọng như những khúc ca về sự sống.
KIM DUNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 620, tháng 9-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
