Tóm tắt: Những năm gần đây với xu thế hội nhập và mở cửa là tiền đề, cơ hội tốt để các địa phương nơi có làng nghề đi lên cùng sự phát triển của ngành Du lịch. Làng nghề là nơi kết tinh những giá trị văn hóa của cha ông, điểm đến thú vị đối với du khách trong và ngoài nước. Bài viết tập trung nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch làng nghề ở huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội), một số tồn tại trong khai thác làng nghề để phát triển du lịch, từ đó đưa ra những giải pháp đồng bộ và toàn diện để phát huy tiềm năng du lịch làng nghề tại huyện Hoài Đức trong tương lai.
Từ khóa: làng nghề, du lịch làng nghề.
Abstract: The recent trend of integration and openness presents both a premise and a significant opportunity for localities with craft villages to thrive through the tourism industry. Craft villages, embodying the crystallized cultural values of our ancestors, serve as compelling destinations for both domestic and international tourists. This article investigates the potential for developing craft village tourism in Hoai Duc district (Hanoi city). It also identifies shortcomings in the current exploitation of these villages for tourism development. Ultimately, the research aims to provide synchronous and comprehensive solutions to further promote the potential of craft village tourism in Hoai Duc district in the future.
Keywords: craft village, craft village tourism.
Trải nghiệm vẽ tranh dân gian Kim Hoàng (Vân Canh, Hoài Đức) - Ảnh: hanoimoi.vn
1. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề
Cách trung tâm Hà Nội khoảng 14km, những năm gần đây, hạ tầng giao thông của huyện Hoài Đức ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch. Huyện Hoài Đức có 54 làng có nghề, trong đó 12 làng được công nhận là làng nghề sản xuất: bánh kẹo, dệt kim La Phù; điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng; chế biến nông sản Minh Khai, Dương Liễu, Cát Quế, thôn Lưu Xá - xã Đức Giang; nghề ảnh Lai Xá - xã Kim Chung; cơ khí, mộc dân dụng Đại Từ - Kim Chung; xây dựng dịch vụ - chế biến nông sản Yên Sở... Theo số liệu thống kê của UBND huyện Hoài Đức, doanh thu tại các làng nghề chiếm gần 40% tổng giá trị ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện. Thu nhập bình quân lao động tại các làng nghề đạt hơn 70 triệu đồng/ người/ năm.
Các làng nghề trên địa bàn huyện hình thành và phát triển từ lâu, sản phẩm làng nghề đa dạng, nhiều chủng loại, mẫu mã đẹp, chất lượng tốt và có thế mạnh cạnh tranh trên thị trường, như: sản phẩm đồ thờ gồm tạc tượng, hoành phi, câu đối, án gian, cửa võng, sơn son thếp vàng, bạc…; sản phẩm chế biến từ nông sản gồm có miến, bún, phở khô, mạch nha, tinh bột, bánh đa nem, gạo các loại, bánh kẹo, nước giải khát; sản phẩm dệt kim, may mặc, quần áo len, bít tất, găng tay... Các sản phẩm làng nghề chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường trong nước, một số mặt hàng đã được xuất khẩu ra nước ngoài.
Địa điểm sản xuất của các cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình trong các làng nghề tập trung chủ yếu trong các khu vực dân cư, làng xóm cũ. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh, vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm đi tiêu thụ cũng tạo áp lực lớn đối với hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật của địa phương. Cùng với sự phát triển của các làng nghề, các loại hình doanh nghiệp sản xuất trong làng nghề cũng phát triển nhanh. Hiện tại, các làng nghề của huyện có gần 400 doanh nghiệp và hơn 7.900 hộ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho hơn 40.000 lao động tại địa phương và ngoài địa phương.
Các làng không chỉ tạo thu nhập cho người dân địa phương mà còn là nguồn tài nguyên du lịch làng nghề mang sắc thái đặc thù, chẳng hạn như làng điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng, làng tranh dân gian Kim Hoàng, làng nhiếp ảnh Lai Xá, làng nghề bánh đa nem Ngự Câu.
Làng nghề Sơn Đồng
Làng Sơn Đồng (xã Sơn Đồng, Hà Nội) là nơi có nghề tạc tượng và đồ thờ Phật giáo lớn nhất cả nước. Làng nghề là nơi tập trung các thợ thủ công có tay nghề cao và những nghệ nhân nổi tiếng với những sản phẩm đạt chất lượng và có giá trị văn hóa cao. Do đó, đa số các hộ dân tại làng nghề đang kiếm thu nhập dựa trên công việc tạc tượng và làm đồ thờ cúng.
Các bức tượng Phật ở làng Sơn Đồng đã có mặt ở khắp mọi nơi từ các đền thờ lớn nhỏ cho đến các ngôi chùa trên khắp cả nước. Các tác phẩm của làng nghề không chỉ đóng góp vào sự phát triển của văn hóa Việt mà còn là biểu tượng của nét đẹp tâm linh của dân tộc ta. Do đó mỗi khi đến du lịch Hoài Đức thì làng nghề Sơn Đồng luôn là lựa chọn ưu tiên của du khách.
Khi vào làng, khách du lịch đã nghe tiếng đục lách cách và mùi thơm của các loại gỗ quý. Ở bất cứ đâu trong làng, người ta cũng bắt gặp những bức tượng như: Phật Thích Ca, Phật A di đà, Phật bà Quán Thế Âm, Đức Thánh Trần, tượng ông Thiện, ông Ác, tượng La Hán... cùng vô số loại đồ thờ thủ công mỹ nghệ khác. Việc quan sát những người thợ chế tác cũng đem lại những trải nghiệm thú vị.
Sơn Đồng từng được xác lập kỷ lục Việt Nam về số lượng, chất lượng tượng gỗ được tạc khắc, cũng như số lượng người làm tượng. Năm 2007, sách Kỷ lục Việt Nam đã ghi danh Sơn Đồng là “Làng nghề tạc tượng và đồ thờ phụng Phật giáo lớn nhất Việt Nam”.
Làng tranh dân gian Kim Hoàng
Làng tranh dân gian Kim Hoàng phát triển từ TK XVIII - XIX do sự hợp nhất từ hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng thành Kim Hoàng. Được mệnh danh là Đông Hồ của Hoài Đức, làng tranh đi theo phương hướng dân gian Việt Nam với các tác phẩm có chủ đề thân quen với người dân. Đề tài trong tranh Kim Hoàng được lấy từ chính cuộc sống mộc mạc, giản dị và gần gũi, quen thuộc với mỗi người dân quê vùng đồng bằng Bắc Bộ như con trâu, con lợn, con gà, hình ảnh làng quê, cảnh ngày Xuân, chợ Tết…
Chất liệu làm nên tranh Kim Hoàng không phải là giấy điệp như tranh Đông Hồ hay giấy dó của tranh Hàng Trống mà là chất liệu giấy đỏ hoặc giấy hồng. Vì thế mà tranh Kim Hoàng còn gọi là tranh đỏ.
Trong tranh Đông Hồ, mỗi bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ, mỗi bản khắc lại tương ứng với một màu và một lượt in thì với tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ dùng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi từ đó mà tự do chấm phá màu sắc lên bức tranh theo cảm xúc và ngẫu hứng cá nhân. Bởi vậy mà mỗi bức tranh là một phong thái riêng chứa đựng sự phóng khoáng và nét tài hoa riêng của mỗi nghệ nhân mặc dù chúng cùng in ra từ một bản khắc.
Làng nhiếp ảnh Lai Xá
Lai Xá là làng nghề truyền thống lâu đời với trên 120 năm tuổi và được biết đến là cái nôi của nền nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam. Tổ nghề của làng là cụ Đặng Huy Trứ với công lao đem nghề độc lạ này về Việt Nam vào thuở ban đầu. Về nước năm 1869, cụ Trứ mở hiệu ảnh mang tên Cảm Hiếu Đường, hiệu ảnh đầu tiên của Việt Nam tại phố Thanh Hà (nay là phố Ngõ Gạch, Hà Nội). Tuy nhiên, Cảm Hiếu Đường chỉ tồn tại được 4 năm và phải đóng cửa vào năm 1873 bởi chiến tranh. Phải đến năm 1890, khi ông Nguyễn Đình Khánh được người chú ruột giúp đỡ, đem ông từ Lai Xá đưa ra Hà Nội học nghề ảnh tại cửa hiệu Chu Dương của người Hoa thì nghề nhiếp ảnh Việt Nam kể từ lúc đó mới đứng trước cơ hội phát triển.
Không chỉ mưu sinh bằng nghề ảnh, ông Nguyễn Đình Khánh đã về quê truyền nghề cho cả làng và được người dân Lai Xá suy tôn thành ông tổ làng nghề. Từ đây, nghề nhiếp ảnh phát triển ra khắp Hà Nội và toàn cõi Việt Nam. Lai Xá cũng là làng nghề nhiếp ảnh truyền thống duy nhất ở Việt Nam.
Trải qua thời gian trên một thế kỷ, những nét độc đáo trong nghệ thuật nhiếp ảnh truyền thống vẫn được người dân Lai Xá gìn giữ. Vào tháng 5-2017, nhân dân trong làng đã tổ chức khánh thành và đưa vào hoạt động Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá, bảo tàng đầu tiên của cộng đồng một thôn (một làng) được xây dựng hoàn toàn từ nguồn kinh phí xã hội hóa. Đây cũng là loại bảo tàng đầu tiên về một làng nghề ở Hà Nội. Khách tham quan có thể hiểu nghề ảnh Lai Xá hiện nay qua 5 hiệu ảnh của người Lai Xá (gồm: Sơn Hà, Đức Lai, Văn Lai, Hồng Thảo và Thủ Đô) ở ngay trong không gian của thôn - phố Lai Xá.
Hiện nay, công nghệ đã thay đổi cuộc sống và cách làm nghề của người dân Lai Xá. Họ không bảo thủ đi theo lối mòn đã cũ mà đã biết cập nhật xu hướng để phát triển nghề nhiếp ảnh lên tầm cao mới. Các hiệu ảnh vẫn duy trì được lượng khách vốn có và kinh doanh ngày càng phát đạt. Điều này cũng góp phần khiến cho huyện Hoài Đức trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các du khách.
Làng nghề bánh đa nem Ngự Câu
Ngoài những làng nghề kể trên, Hoài Đức cũng nổi tiếng với nghề làm bánh đa nem của người dân làng Ngự Câu (xã An Thượng, huyện Hoài Đức). Khách du lịch ấn tượng khi đến làng nghề Ngự Câu bắt gặp hình ảnh từ đường làng, ngõ xóm, bờ tường, mái nhà, mé ao… chỗ nào có nắng là chỗ ấy có bánh. Theo lời kể của các nghệ nhân trong làng, để làm ra những mẻ bánh đa nem chất lượng đòi hỏi sự khéo léo, công phu, tỉ mỉ và trải qua nhiều công đoạn, từ khâu chọn gạo, ngâm gạo, xay bột, tráng bánh, phơi bánh và cắt bánh. Gạo phải được ngâm từ 8-9 tiếng từ tối hôm trước đến sáng hôm sau mới đem xay.
Với truyền thống làm bánh đa nem khoảng 50 năm nay, thương hiệu bánh đa nem Ngự Câu ngày càng được nhiều người dân biết đến. Bánh đa nem tại đây chỉ đơn thuần là gạo tẻ và muối, không cho thêm bất cứ phụ gia nào mà vẫn giữ được độ dẻo dai và hương vị đặc trưng. Vì vậy, bánh đa nem Ngự Câu được thương lái đem đi tiêu thụ khắp nơi trong Nam ngoài Bắc.
Khác với các vùng khác, bánh đa nem Ngự Câu đã tạo nên thương hiệu riêng bởi những đặc trưng, bánh màu trắng vừa phải, mềm, dẻo, mở túi đựng bánh thấy còn thơm mùi gạo lại dai chứ không dễ vỡ như nhiều loại bánh đa nem khác, khi cuộn nem rán, vỏ bánh giòn tan, vàng óng rất hấp dẫn. Trong nhiều năm qua, người dân làng nghề Ngự Câu đã và đang nỗ lực với nghề truyền thống để vừa có thu nhập, vừa giữ được nét đẹp của ngôi làng cổ ven đô.
Những làng nghề truyền thống kể trên ở huyện Hoài Đức tích hợp nhiều giá trị văn hóa, tiềm năng phát triển du lịch. Khai thác tiềm năng của làng nghề để phát triển du lịch ở Hoài Đức đang được coi là một trong những hướng đi triển vọng vừa nâng cao thu nhập, vừa giúp lưu giữ nét đẹp của các làng nghề.
2. Một số tồn tại trong khai thác làng nghề để phát triển du lịch
Với những tiềm năng, thế mạnh của huyện Hoài Đức sẽ trở thành cơ sở quan trọng để thiết lập và mở rộng phát triển du lịch làng nghề, tạo thành những sản phẩm du lịch đa dạng, giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Tuy nhiên, hiện du lịch của huyện Hoài Đức chưa có quy hoạch phát triển du lịch làng nghề riêng nên sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, du khách đến Hoài Đức dành rất ít thời gian để tham quan các làng nghề bởi hầu hết các làng nghề này chưa hướng tới mục đích trở thành điểm đến trải nghiệm của du khách.
Dân cư địa phương ở các làng nghề trước đây chủ yếu vẫn làm nông nghiệp nên còn nhiều bỡ ngỡ trong quá trình tiếp thu, chuyển đổi sang làm dịch vụ du lịch, chưa có đủ kỹ năng phục vụ chuyên nghiệp.
Công tác phát triển làng nghề đối mặt với nhiều khó khăn, bất cập. Mặt bằng sản xuất chật hẹp do chủ yếu cơi nới tại gia đình, vừa sản xuất vừa sinh hoạt cho cả nhà vì thế nhiều cơ sở không có điều kiện đầu tư trang bị máy móc mở rộng sản xuất. Đường đi chật hẹp, phần lớn người dân phải di chuyển bằng xe máy, xe thồ, các phương tiện giao thông tránh nhau rất khó… công tác vận chuyển, giao thương hàng hóa gặp một số trở ngại.
Tại một số làng nghề là “điểm đen” về ô nhiễm môi trường của huyện Hoài Đức như: Cát Quế, Minh Khai, Dương Liễu (các làng nghề này có nghề truyền thống làm miến dong, mì gạo, tinh bột sắn)… nước thải của quá trình sản xuất xả trực tiếp ra môi trường gây nên tình trạng ô nhiễm trong nhiều năm qua.
Các làng nghề tại Hoài Đức chưa hấp dẫn được du khách quốc tế, do thời gian hạn chế nên du khách quốc tế thường không đi thăm được nhiều làng nghề thủ công. Bên cạnh đó, làng nghề thủ công cũng chưa đủ sức hấp dẫn khách quốc tế đi thành những tour chuyên đề chuyên khám phá làng nghề thủ công.
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch tại Hoài Đức chưa được chú trọng: các làng nghề mới chỉ tập trung xây dựng cơ sở vật chất cho phát triển sản xuất, lưu thông sản phẩm của làng nghề, mà chưa chú trọng đến cơ sở vật chất phục vụ cho du lịch. Những điều kiện cơ sở vật chất như bãi đỗ xe, hệ thống nhà vệ sinh công cộng, hệ thống trưng bày sản phẩm, chợ sản phẩm, không gian trải nghiệm chưa được đầu tư, nâng cấp và có định hướng phát triển trong tương lai.
Dịch vụ ăn uống tại làng nghề gần như chưa có: trong hoạt động du lịch, kinh doanh hoạt động ăn uống góp phần rất lớn trong phát triển kinh tế địa phương, nhưng ở các làng nghề tại Hoài Đức gần như chưa có các dịch vụ ăn uống để phục vụ du khách. Sau khi tham quan làng nghề xong, du khách thường di chuyển đến một địa điểm khác để ăn trưa hoặc ăn tối.
3. Giải pháp phát triển du lịch làng nghề
Hiện nay, phát triển du lịch làng nghề tại Hoài Đức vẫn làm theo kiểu tự phát, du khách vẫn tự tìm đến làng nghề là chính, ít đi theo tour. Để có thể phát triển du lịch làng nghề, cần tiến hành nhiều giải pháp như sau:
Một là, đầu tư xây dựng đào tạo trình độ du lịch cho người dân bằng các lớp đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ du lịch, quản lý nhà hàng, cơ sở lưu trú để nâng cao trình độ cho người dân địa phương trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Chính quyền và nhân dân tại Hoài Đức cần thay đổi cơ cấu trong lao động sản xuất, tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch, giảm dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hai là, Hoài Đức cần triển khai xây dựng quy hoạch phát triển du lịch đồng bộ với quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Trong đó, phát triển du lịch làng nghề gắn với nét kiến trúc cổ kính, phong cảnh thanh bình của làng quê, nét đẹp văn hóa, thuần phong mỹ tục cần được nhấn mạnh nhằm tạo ra sức hấp dẫn riêng.
Ba là, huyện Hoài Đức nên tổ chức rà soát, đánh giá lại hiện trạng 12 làng nghề đã được công nhận, từ đó xác định các làng nghề đủ điều kiện phục vụ du lịch; đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ làng nghề nâng cấp cơ sở hạ tầng đón tiếp khách tham quan và truyền thông quảng bá sản phẩm làng nghề. Xây dựng hệ thống trang web, fanpage về các làng nghề trong huyện Hoài Đức. Tập trung quảng bá về các làng nghề, sản phẩm làng nghề, cơ sở, hộ sản xuất và các nghệ nhân của làng nghề nằm trong các tour du lịch. Đây là khâu quan trọng, quyết định để hình ảnh làng nghề đến được với đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Bốn là, huyện Hoài Đức cần tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích thiết thực từ việc phát triển làng nghề gắn với du lịch; hỗ trợ người dân tham gia các lớp tập huấn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, kỹ năng đón tiếp, quản lý và phục vụ khách; phát huy lợi thế giá trị ẩm thực địa phương. Chính quyền địa phương liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lữ hành để xây dựng chương trình trải nghiệm hấp dẫn ở làng nghề; tạo cầu nối liên kết giữa các đơn vị lữ hành để xây dựng tour thu hút khách du lịch đến tham quan và trải nghiệm.
Năm là, hiện nay, xu hướng khách du lịch đến làng nghề không chỉ ngắm nhìn, mua sản phẩm mà còn được tham gia học kỹ năng làm nghề, tự tay tạo ra sản phẩm của riêng mình. Điều quan trọng, các làng nghề phải giữ được nghệ nhân, giữ lại những ngôi nhà có kiến trúc cổ, sưu tầm nhiều sản phẩm nổi tiếng, có phòng trưng bày hiện vật lịch sử phát triển làng nghề. Trong làng phải có người am hiểu nghề, phong tục và văn hóa làng để giới thiệu đến du khách. Hơn nữa, trong việc phát triển gắn với du lịch, các làng nghề nên có hai khu vực: một khu trưng bày sản xuất các mặt hàng, một khu vực để khách trải nghiệm kỹ thuật nghề, xem các nghệ nhân trình diễn. Trong đó, ưu tiên vinh danh những nghệ nhân và khuyến khích họ trực tiếp hướng dẫn khách du lịch tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm.
Sáu là, tổ chức các tour làng nghề kết hợp với các tour du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp... Cũng cần có sự liên kết giữa các làng nghề, để khai thác triệt để những tiềm năng còn bỏ ngỏ. Đây còn là phương thức nhân lên sức mạnh thương hiệu, góp phần giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển làng nghề trong hội nhập.
Bảy là, để làng nghề trở thành điểm đến hấp dẫn du khách, làng nghề cần chú ý đầu tư cơ sở vật chất với các hạng mục sau: đường vào làng nghề thuận lợi, hệ thống bãi đỗ xe cho các loại xe từ 4 chỗ đến 45 chỗ, hệ thống nhà hàng mang bản sắc địa phương phục vụ nhu cầu ăn uống của du khách.
4. Kết luận
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện Hoài Đức có tiềm năng phát triển lớn và đóng vai trò phát triển rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Làng nghề ở huyện Hoài Đức có thể vừa là sản phẩm du lịch đặc trưng khi làng nghề đó có khả năng hấp dẫn, thu hút khách, vừa là sản phẩm du lịch bổ sung khi tạo ra những mặt hàng lưu niệm cho du khách. Bởi vậy, vấn đề đi tìm các biện pháp để du lịch làng nghề ở đây thực sự phát huy tiềm năng và hiệu quả, đóng góp ngày một lớn, bền vững hơn cho mục tiêu phát triển du lịch cũng như phát triển kinh tế, xã hội, bảo tồn các giá trị văn hóa… được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Để du khách có thể hiểu được tường tận làng nghề, các cấp chính quyền ở huyện Hoài Đức cần phải định vị được những nội dung hướng dẫn cơ bản khi du khách đến thăm làng nghề, như: đình làng, chùa làng, các công trình đặc trưng trong làng, xưởng sản xuất, quy trình sản xuất, không gian trải nghiệm, không gian trưng bày sản phẩm... Hy vọng, với một hệ thống giải pháp như trên, nếu được quan tâm, triển khai đúng mức, trong tương lai, du lịch làng nghề tại Hoài Đức sẽ có vị thế xứng đáng với giá trị văn hóa du lịch ẩn chứa trong mỗi làng nghề.
_____________________
Tài liệu tham khảo
1. Huyện ủy - HĐND - UBND huyện Hoài Đức, Địa chí Hoài Đức (tập 2), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2018.
2. Phạm Quốc Sử, Phát triển du lịch làng nghề - nghiên cứu trường hợp tỉnh Hà Tây, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
3. UBND huyện Hoài Đức, Báo cáo công tác quản lý di sản văn hóa, thiết chế văn hóa và du lịch trên địa bàn huyện Hoài Đức năm 2023, Hà Nội, 2023.
4. UBND huyện Hoài Đức, Báo cáo công tác quản lý di sản văn hóa, thiết chế văn hóa và du lịch trên địa bàn huyện Hoài Đức năm 2024, Hà Nội, 2024.
Ngày Tòa soạn nhận bài: 20-4-2025; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 13-5-2025; Ngày duyệt bài: 28-5-2025.
TS NGUYỄN ĐÌNH PHÚC
Nguồn: Tạp chí VHNT số 608, tháng 6-2025