“Tà lắt 3 ngăn” - linh hồn văn hóa gùi của người Cơ Tu trên dãy Trường Sơn

Những ngày đầu thu năm 2025, trong chuyến du lịch dọc dãy Trường Sơn, chúng tôi tìm đến xã Sông Vàng, TP Đà Nẵng, nơi có một nghệ nhân nổi tiếng với nghề đan lát – ông Phạm Văn Crới - nay đã 70 tuổi. Căn nhà nhỏ của ông nằm nép mình bên triền núi nhưng bước vào trong, ai cũng phải ngỡ ngàng. Trên chái bếp, treo lấp lánh ánh khói bếp là hàng chục chiếc gùi lớn nhỏ, bên cạnh là nhiều sản phẩm thủ công khác làm từ mây, tre, nứa. Những chiếc gùi ấy không chỉ là vật dụng thường ngày mà còn minh chứng sống động cho một kho tàng văn hóa đậm bản sắc của đồng bào Cơ Tu.

Nghề đan lát - hơi thở cuộc sống miền sơn cước

Ông Crới kể, từ ngàn xưa, người Cơ Tu đã xem nghề đan lát như một phần tất yếu trong đời sống. Gùi, giỏ, nong, nia… giúp họ bớt đi sức nặng trên vai, tiết kiệm thời gian khi mang lương thực, thực phẩm, nước uống, củi rừng về nhà. Để tạo nên một chiếc gùi bền đẹp, người thợ phải kiên trì, tỉ mỉ trong từng nan tre, từng sợi mây.

Tùy mục đích sử dụng mà mỗi loại gùi có cách đan khác nhau. Ví như gùi vận chuyển lúa, gùi đựng muối hay gùi gạo thì phần thân phải thật kín, được đan bằng kỹ thuật “nong mốt” chắc chắn, dáng hình thang cân to rộng. Còn gùi trẻ em (p’reng), gùi đựng trang sức hay gùi dùng trong lễ hội thì được đan bằng mây vót mỏng, kết hợp lối đan chéo phức tạp. Loại gùi này thường có thân hình ống, miệng tròn, đáy vuông, trông vừa duyên dáng vừa tinh tế. Với gùi đựng nước, người Cơ Tu đan rất khít, rồi quét thêm lớp dầu rái trong ngoài để nước không bị rò rỉ.

Nguồn nguyên liệu cho nghề đan lát vốn sẵn có ở núi rừng Trường Sơn. Mây, tre, nứa, lồ ô hay các loại dây leo bền chắc được bà con khai thác quanh năm. Khi mang về, họ thường ngâm mây ở khe suối cho dẻo, hoặc vót thành nan rồi đặt lên giàn bếp để tránh mối mọt, lại tạo nên màu cánh gián bóng đẹp. Nhờ vậy, chiếc gùi vừa bền, vừa có hồn núi rừng.

Cấu tạo đặc biệt của gùi Cơ Tu

Theo nghệ nhân Crới, một chiếc gùi chuẩn thường có ba phần. Thân gùi đan bằng mây, bên ngoài có bốn thanh gỗ nhỏ chạy dọc từ đáy đến miệng, giữ cho gùi không bị vẹo khi mang nặng. Người Cơ Tu ở vùng cao thích dáng gùi hình chữ V, đáy nhỏ, miệng loe rộng; còn vùng thấp thì chuộng gùi có miệng và đáy bằng nhau, đế gùi bao giờ cũng đan bằng mây sợi to.

Già làng Alăng Cần nói về loại gùi tà lắt cho lớp trẻ biết

Phần dây đeo cũng rất cầu kỳ. Người ta chọn mây xà phun, mây song, hoặc vỏ cây lạch vót mỏng làm dây. Nếu đan bằng mây thì dây gùi bền chắc hơn, chịu được sức nặng. Một chiếc gùi tốt có thể gắn bó với chủ nhân đến 30 năm nhưng dây đeo thường phải thay gấp đôi số lần so với gùi. Người Cơ Tu gọi vui: “hai lần dây trên một lần gùi”.

“Tà lắt 3 ngăn” - tinh hoa của nghệ thuật đan lát

Trong kho tàng “văn hóa gùi” của người Cơ Tu, độc đáo nhất là loại gùi tà lắt 3 ngăn – niềm tự hào mà nghệ nhân Crới luôn say sưa kể lại. Ông bảo, để có được một chiếc tà lắt đẹp và bền, người thợ phải vào tận rừng sâu tìm loại mây tốt nhất như mây xà phun, mây rã, mây song, mây cám.

Du khách Nga rất thích thú sau khi tìm hiểu về gùi thì mang gùi để check-in

Khác với gùi thường, tà lắt có thân ngắn và nhỏ hơn, được thiết kế thêm hai ngăn nhỏ ở hai bên. Hai ngăn này rất tiện lợi, thường dùng để đựng cơm, gạo, dao, liềm, mũi tên hay dụng cụ lấy lửa khi đi rừng, đi rẫy. Mỗi chiếc gùi tà lắt phải mất từ 2 đến 3 tháng mới hoàn thành. Người thợ vừa đan nan “nong mốt”, vừa kết hợp nhiều kỹ thuật phức tạp khác để tạo nên hình dáng thanh thoát mà vững chãi. Nhìn kỹ, ta thấy ở đó không chỉ là công cụ lao động mà còn là tác phẩm nghệ thuật chứa đựng trí tuệ và sự sáng tạo của bao thế hệ.

Già làng Crới khẳng định, từ xa xưa tổ tiên người Cơ Tu đã sáng chế ra tà lắt để phục vụ cho cả sinh hoạt thường ngày lẫn chiến trận. Những chiến binh khi băng rừng truy đuổi thú dữ hay kẻ thù đều mang tà lắt, vì nó gọn gàng, nhiều ngăn, dễ dàng lấy đồ trong mọi tình huống. Ông còn nửa đùa nửa thật: “Ngày nay, nhiều loại ba lô quân sự hiện đại trên thế giới cũng dựa theo dáng dấp tà lắt mà ra đó thôi!”. Quả vậy, tà lắt 3 ngăn là minh chứng cho sự khéo léo và trí sáng tạo tuyệt vời của đồng bào Cơ Tu.

Hình bóng tà lắt trong phong tục cúng đất

Không chỉ hiện diện trong lao động, gùi tà lắt còn in dấu trong đời sống tín ngưỡng. Ở quê tôi, tháng ba hằng năm là mùa cúng đất. Sau lễ cúng, các bậc cao niên thường lấy bẹ chuối làm một chiếc “giỏ” gọi là xà lắt, đựng nào trứng luộc, tôm, rau lang, khoai sắn… rồi treo ở ngã ba đường cái cho người âm dùng.

Nhiều người tin rằng, từ “tà lắt” đã biến âm thành “xà lắt”. Truyền thuyết kể lại, trong danh mục chư thần được cúng có vị Chủ Ngung đào lương bang Nguyễn Thị Thúc – con gái một vị vua, gả cho người dân tộc Thượng. Khi bà mất, nhà vua phong sắc chưởng đất miền Nam và truyền cho dân phải cúng. Lễ cúng đất có treo xà lắt bắt nguồn từ đó. Có chuyện còn kể, vợ chồng bà Nguyễn Thị Thúc chỉ có một bộ y phục, khi đi ăn cúng, một người đi dự, một người ở nhà, nên sau lễ, “người âm” mang xà lắt về cho người kia. Lại có thuyết cho rằng, thức ăn trong xà lắt là phần dành cho những linh hồn tật nguyền không thể đến dự lễ.

Dù truyền thuyết muôn hình nhưng điểm chung là hình dáng xà lắt trong lễ cúng gợi nhớ đến tà lắt trên lưng người Cơ Tu, minh chứng cho sự giao thoa giữa đời sống vật chất và tâm linh.

Giữ hồn gùi giữa thời hiện đại

Đối với những loại gùi đơn giản như gùi củi, gùi khoai sắn, chỉ mất dăm ba ngày là hoàn thành. Nhưng với gùi đẹp, tinh xảo thì người thợ phải cần mẫn hàng tháng trời. Khi không dùng, đồng bào treo gùi trên giàn bếp. Nhờ khói bếp hun khô, những chiếc gùi có màu cánh kiến, bền bỉ với thời gian, chống được ẩm mốc và mối mọt.

Ngày nay, ở vùng xã Sông Vàng, chỉ còn vài người già như Y Kông, Đinh Văn Bớt, Bh’riu Thiện… còn giữ được tay nghề tinh xảo. Trong đó, già Y Công, 100 tuổi, ở thôn Tống Coói, xã Sông Vàng (TP. Đà Nẵng), vẫn còn minh mẫn và đau đáu với nghề. Ông trầm ngâm nói: “Có thể nói, người Cơ Tu có một kho tàng văn hóa gùi rất đáng trân trọng. Thế mà giờ đây, đa số gùi đã cũ, sắp hỏng cả rồi. Chỉ số ít người già còn đan, lớp trẻ thì chẳng mặn mà, chúng chỉ thích ‘đan’ trên điện thoại thôi. Chúng tôi phải làm cho chúng hiểu để biết quý trọng mới được”.

Nghe ông nói, tôi như cảm nhận được cả một nỗi niềm gửi gắm. Đằng sau ánh mắt ấy là niềm tin rằng rồi sẽ có ngày con cháu tìm về, nâng niu những giá trị cha ông để lại. Bởi gùi – và đặc biệt là gùi tà lắt 3 ngăn – không chỉ là vật dụng lao động mà còn là linh hồn, là bản sắc của người Cơ Tu trên dãy Trường Sơn hùng vĩ.

Bài và ảnh: TIÊN SA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 619, tháng 9-2025

;