Sự phục hưng và phát triển nghệ thuật ca trù 50 năm sau ngày đất nước thống nhất: Thành tựu, thách thức và triển vọng phát triển bền vững

Nghệ thuật ca trù, một loại hình diễn xướng bác học độc đáo của Việt Nam, đã trải qua nhiều biến thiên trong lịch sử, từ thời kỳ hưng thịnh trong không gian văn hóa cung đình và dân gian, đến giai đoạn mai một do chiến tranh và thay đổi môi trường xã hội, và hiện nay đang từng bước được phục hưng và dần phát triển như một thành tố quan trọng trong nền văn hóa nghệ thuật nước nhà. Sự thay đổi trong nhận thức và chính sách văn hóa sau thống nhất đất nước năm 1975 đã mở ra những điều kiện quan trọng cho quá trình bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị ca trù trong các không gian mới, từ đó thúc đẩy sự lan tỏa và sáng tạo văn hóa dựa trên nền tảng di sản.

Ảnh tư liệu minh hoạ: Ngô Huyền

 

Trong 50 năm qua (1975-2025), nghệ thuật ca trù đã chuyển mình từ vị thế một loại hình nghệ thuật truyền thống đứng trước nguy cơ thất truyền, đến việc được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại vào năm 2009, và đang tiếp tục được nghiên cứu, truyền dạy, thực hành và sáng tạo trong bối cảnh đương đại. Đây là một minh chứng rõ ràng cho khả năng hồi sinh của di sản khi được đặt trong chiến lược phát triển bền vững, dựa trên sự tham gia của cộng đồng, sự hỗ trợ của nhà nước và kết nối với thị trường văn hóa.

Từ những nỗ lực bảo tồn nguyên trạng đến các mô hình diễn xướng thích ứng với du lịch, giáo dục và sân khấu hóa, ca trù hiện nay không chỉ tồn tại như một biểu tượng văn hóa truyền thống mà còn từng bước được khai thác như một sản phẩm công nghiệp văn hóa - lĩnh vực đang được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số, sự phục hưng của ca trù cần được nhìn nhận không chỉ như một hành trình phục hồi di sản, mà còn là một quá trình tái tạo văn hóa hướng đến phát triển sáng tạo, bản sắc và bền vững.

Bài viết này tập trung phân tích tiến trình phục hưng và phát triển nghệ thuật ca trù trong nửa thế kỷ qua, từ sau ngày đất nước thống nhất (1975) đến nay (2025), trên các phương diện: nghiên cứu, bảo tồn, truyền dạy, sáng tạo mới và hội nhập vào ngành công nghiệp văn hóa. Qua đó, bài viết góp phần làm rõ vai trò của ca trù trong đời sống văn hóa đương đại, cũng như những thách thức và triển vọng trong việc định vị di sản này như một nguồn lực văn hóa phục vụ phát triển quốc gia.

1. Hoạt động bảo tồn

Kiểm kê

Năm 2008, kiểm kê lần đầu được tiến hành tại 15 tỉnh, thành phố để phục vụ xây dựng hồ sơ quốc gia “Hát ca trù của người Việt”. Sau khi ca trù được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp vào tháng 10-2009, công tác kiểm kê đã trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch hành động quốc gia nhằm bảo vệ di sản này. Việc kiểm kê định kỳ không chỉ thể hiện cam kết của Việt Nam với UNESCO mà còn là cơ sở quan trọng cho công tác bảo tồn, phục hồi và phát huy giá trị của di sản ca trù trong đời sống đương đại. Từ năm 2009 trở đi, hoạt động này được duy trì thường niên tại các địa phương, và định kỳ 2 năm/lần, báo cáo tổng hợp sẽ được gửi về Viện Âm nhạc.

Đến tháng 11-2014, các địa phương đã gửi về Viện Âm nhạc kết quả kiểm kê giai đoạn 2013-2014, đánh dấu lần kiểm kê thứ ba. So với giai đoạn 2011-2012 (chỉ 10/15 tỉnh thành thực hiện), lần này đã có đủ 15/15 tỉnh thành tham gia, cho thấy sự chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm trong công tác bảo vệ di sản ở cấp địa phương. Một trong những điểm mới đáng chú ý là nội dung kiểm kê năm 2014 được mở rộng và chi tiết hơn, đặc biệt là về yếu tố “con người”. Lần đầu tiên, Viện Âm nhạc đã hướng dẫn phân loại nghệ nhân thành ba nhóm: “nghệ nhân lão thành”, “nghệ nhân ca trù”, và “người biết đàn, hát, múa ca trù”, giúp nhận diện rõ hơn lực lượng thực hành và truyền dạy ca trù ở từng địa phương.

Dựa trên báo cáo của 15 tỉnh, thành, có thể tạm đưa ra hiện trạng hoạt động và những biến đổi về số liệu kiểm kê của các tỉnh, thành phố có di sản văn hóa ca trù tính từ năm 2009 như sau: Từ năm 2009-2014, cả nước ghi nhận sự gia tăng đáng kể trong phong trào ca trù. Số lượng CLB ca trù tăng từ 68 lên 90; số người thực hành tăng từ 903 lên 1.100 người (tăng 197 người); số nghệ nhân ca trù tăng từ 52 lên 101 người (tăng 49 người); tuy nhiên, số nghệ nhân lão thành giảm từ 60 còn 53 người do tuổi cao. Tuy nhiên, công tác kiểm kê vẫn còn thiếu thống nhất và một số tỉnh chưa kê khai đầy đủ, ví dụ Hưng Yên không báo cáo số người thực hành, Hải Phòng có số liệu chưa hợp lý, có thể do không khảo sát đầy đủ các huyện như Đông Môn - nơi phong trào ca trù phát triển mạnh và đạt thành tích tốt tại liên hoan toàn quốc 2014.

Năm 2025, để chuẩn bị cho việc xây dựng Báo cáo định kỳ quốc gia, Bộ VHTTDL gửi công văn cho UBND các tỉnh/thành phố chỉ đạo Sở VHTT/ Sở VHTTDL chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và cộng đồng chủ thể di sản nghiên cứu xây dựng Báo cáo về tình trạng bảo vệ di sản hát ca trù (từ năm 2022-2025) theo nội dung Đề cương kèm theo, bảo đảm thực hiện chế độ báo cáo và cam kết của quốc gia thành viên sau khi di sản văn hóa phi vật thể hát ca trù được UNESCO ghi danh. Đây là đợt kiểm kê diện rộng kể từ lần gần nhất là năm 2014.

Về nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa, phục dựng, áp dụng khoa học công nghệ

Hoạt động nghiên cứu khoa học Về ca trù đã được triển khai từ nhiều góc độ như lịch sử, văn hóa, văn học, âm nhạc, và nghệ thuật biểu diễn. Một trong những công trình tiên phong có giá trị nền tảng là ca trù biên khảo của hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, xuất bản năm 1962 bởi Nxb Sài Gòn. Đây được xem là tài liệu đầu tiên hệ thống hóa một cách toàn diện về nguồn gốc, lịch sử, thể loại văn chương và thể cách của ca trù. Cuốn sách cung cấp thông tin phong phú về tổ chức giáo phường, luật lệ hành nghề, thuật ngữ chuyên môn, các danh ca, kép đàn, cũng như những tác phẩm tiêu biểu, thể hiện tư duy tổng hợp và cách tiếp cận liên ngành đặc sắc.

Tiếp nối, một số nghiên cứu chuyên sâu tập trung vào thể cách và không gian diễn xướng cụ thể như công trình Hát cửa đình Lỗ Khê của Chu Hà và Nguyễn Xuân Khoát (1980), đã góp phần tạo nên cái nhìn toàn cảnh về ca trù truyền thống. Trong hai thập niên 1990-2000, các hội thảo khoa học về ca trù được tổ chức như Hội thảo Ca trù Cổ Đạm (1999, Hà Tĩnh) đã thúc đẩy nhiều công bố học thuật đáng chú ý, điển hình là tập khảo luận Góp phần tìm hiểu lịch sử Ca trù của Nguyễn Xuân Diện (2000). Đặc biệt, công trình Nghìn năm Âm nhạc Thăng Long - Hà Nội (2008) do Đặng Hoành Loan và Trần Thị Kim Oanh chủ biên đã xếp ca trù vào thể loại âm nhạc cung đình với hệ thống tư liệu phong phú.

Từ năm 2005 trở lại đây, xu hướng nghiên cứu liên ngành được đẩy mạnh. Nhiều công trình mới đã tiếp cận ca trù từ phương diện biểu diễn, cộng đồng và đào tạo như Đặc khảo Ca trù Việt Nam (2006), Đào nương và nghệ thuật hát trong Ca trù của Lê Thị Bạch Vân (2019). Gần đây nhất, cuốn Nghiên cứu nhạc truyền thống Việt Nam từ thực tiễn điền dã của Đặng Hoành Loan (2024) với 12 bài viết về ca trù đã cung cấp khối tư liệu thực địa đồ sộ được thu thập trong 9 tháng tại 55 xã có hoạt động ca trù trên cả nước.

Bên cạnh đó, hội thảo quốc tế Hát Ca trù người Việt (2006) không chỉ khẳng định giá trị độc đáo của ca trù trong kho tàng di sản âm nhạc truyền thống mà còn đề xuất các kế hoạch hành động quốc gia cho bảo tồn và phát huy. Một số bài viết thực tiễn khác đã đề cập đến các mô hình bảo tồn, vấn đề đào tạo và chuyên nghiệp hóa ca trù trong bối cảnh hiện đại, như của Nguyễn Đình Lâm (2009), Trung Dũng (2009), Lê Thị Bạch Vân (2010)...

Tổng quan tư liệu nghiên cứu cho thấy, hệ thống học thuật về ca trù hiện nay khá phong phú và đa chiều. Các công trình đã cung cấp nhiều tư liệu quý về nguồn gốc, đặc trưng âm nhạc, lệ tục diễn xướng, cũng như vấn đề bảo tồn - phát huy. Tuy vậy, hầu hết các công trình vẫn tiếp cận từ góc độ văn học, lịch sử, khảo cứu Hán Nôm, trong khi lĩnh vực âm nhạc học - đặc biệt là các vấn đề âm luật - vẫn là khoảng trống nghiên cứu. Sự thiếu nhất quán trong việc mô tả khổ đàn, khổ phách khiến thế hệ mới trong giới đào kép và người yêu mến ca trù gặp khó khăn khi tiếp cận nghệ thuật này.

Một bước tiến quan trọng gần đây là công trình Ả Đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật (2023) của nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền. Đây là kết quả của hơn 6 năm nghiên cứu âm luật ca trù, với mục tiêu xác định và hệ thống hóa các khái niệm như khổ đàn, khổ phách, cung bắc - cung nam. Công trình không chỉ mang tính lý thuyết mà còn ứng dụng cao, thể hiện qua các khóa tập huấn tại các CLB ca trù ở Hải Phòng (Giáo phường Ca trù Hải Phòng, CLB Ca trù Đông Môn). Nhà nghiên cứu đã mô hình hóa các khổ phách - khổ đàn thành hệ thống bài bản liền mạch, có chiều dài thời gian âm nhạc chính xác, trên cơ sở phân tích các bản thu âm ca trù từ TK XX, cũng như tri thức học hỏi từ các nghệ nhân cuối đời. So với các dự án bảo tồn trước đây chủ yếu dừng ở sưu tầm, ghi chép và tư liệu hóa, công trình này mang tính ứng dụng cao, hỗ trợ hiệu quả cho việc bảo tồn và truyền dạy.

Về mặt sưu tầm và tư liệu hóa : Một dấu mốc quan trọng là chương trình sưu tầm âm nhạc cổ truyền của UNESCO năm 1976, trong đó GS Trần Văn Khê đã thu âm giọng hát bà Quách Thị Hồ - sau đó phát hành trên đĩa nhựa 33 vòng. Tác phẩm Tỳ Bà Hành của bà được bình chọn là tiết mục xuất sắc tại Diễn đàn Âm nhạc châu Á (1983), góp phần đưa ca trù đến với công chúng trong và ngoài nước. Năm 1994, băng nhạc Thề Non Nước tôn vinh giọng hát bà Hồ được Dihavina phát hành. Trong hệ thống tư liệu âm thanh của Viện Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, và UNESCO, còn lưu lại nhiều bản thu với sự tham gia của các danh ca, danh cầm xuất thân từ giáo phường Vĩnh Phúc như Đinh Khắc Ban, Đinh Thị Bản, Nguyễn Thị Cúc… Đặc biệt, ông Đinh Khắc Ban - người đệm đàn cho bà Hồ - được xem là bậc thày đàn đáy. Bà Hồ là nghệ sĩ ca trù duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và được trao giải tại Liên hoan Âm nhạc truyền thống châu Á (1983), đánh dấu một bước ngoặt trong việc nhìn nhận giá trị ca trù như một bộ môn âm nhạc cổ truyền đặc sắc.

Năm 2005, Việt Nam chính thức lập hồ sơ đề cử UNESCO, và ngày 1-10-2009, nghệ thuật ca trù được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Từ đó đến nay, công tác nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa và phục dựng đã đạt được những bước tiến đáng kể. Nhiều hiện vật và văn bản Hán Nôm đã được sưu tầm và công bố, như sắc phong tổ nghề tại làng Đông Môn (Hải Phòng), thần phả về các ca công ở Bắc Ninh, 22 văn bia ghi việc mua bán quyền hát Cửa đình ở Vĩnh Phúc, sách dạy hát tại Thái Bình…

Tuy vậy, hệ thống tư liệu ghi âm và ghi hình ca trù hiện vẫn còn phân tán, chủ yếu do các trung tâm nghiên cứu chuyên ngành hoặc cá nhân nghệ nhân, câu lạc bộ tự lưu giữ. Một số nỗ lực số hóa đã được thực hiện như bộ DVD giọng hát nghệ nhân Quách Thị Hồ, các video tại trang web catru.vn của CLB Ca trù Thái Hà. Tuy nhiên, việc xây dựng một cơ sở dữ liệu số quốc gia về ca trù vẫn là yêu cầu cấp bách chưa được hiện thực hóa.

Về phục dựng: Nhiều thể cách cổ đã được hồi sinh nhờ nỗ lực của các nghệ nhân như NSND Xuân Hoạch, NSND Thanh Hoài, cùng các nhóm nghệ nhân ở Thái Hà, Kim Đức (Phú Thọ), giáo phường Ca trù Hải Phòng, Đông Môn (Hải Phòng)... Tuy nhiên, một số trình thức đặc biệt như hát thờ tổ, hát cửa đình - vốn là nghi lễ quan trọng trong không gian thực hành ca trù - hiện đang bị mai một và chỉ còn tồn tại lẻ tẻ ở vài địa phương. Việc phục dựng cũng gặp khó khăn về kinh phí, không gian diễn xướng truyền thống và thiếu thế hệ kế cận được đào tạo bài bản.

Nổi bật là phục dựng Hát cửa đình - thành công đầu tiên trong việc khôi phục trình thức cổ điển nhất của ca trù

Trước TK XX, Hát cửa đình - một hình thức ca trù mang tính nghi lễ cổ điển - phổ biến khắp vùng Bắc Bộ đến tận Nghệ An, Hà Tĩnh. Giáo phường Ca trù đảm nhận phần nhạc lễ tại đình làng, nơi được ví như “nhà hát nhân dân”, với cơ chế thưởng thẻ - một thiết chế cung cầu nghệ thuật sớm của người Việt. Tuy nhiên, từ thập niên 1950, sinh hoạt Hát cửa đình dần mai một do nhiều nguyên nhân xã hội. Gần 50 năm gián đoạn khiến nhiều nghệ nhân từ bỏ nghề, nghệ thuật đứng trước nguy cơ thất truyền.

Trong tiến trình phục hồi di sản ca trù, năm 2015 đánh dấu bước ngoặt khi nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ (91 tuổi) - kép đàn cuối cùng từng thực hành Hát cửa đình - truyền dạy lại cho Giáo phường Ca trù Hải Phòng, dưới sự hỗ trợ của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền. Chỉ sau 4 tháng tập luyện, chương trình phục dựng đã tái hiện trọn vẹn một canh hát thờ cổ tại đình Hàng Kênh, trở thành thành công đầu tiên trong nghiên cứu phục hồi trình thức Hát cửa đình. Từ đó, mỗi năm, Giáo phường Ca trù Hải Phòng tổ chức 10-12 buổi trình diễn tại đình Hàng Kênh và các điểm di sản khác, góp phần gìn giữ, truyền dạy và quảng bá nghệ thuật ca trù đến công chúng. Đây là mốc son quan trọng, giúp truyền lại di sản quý báu của tổ tiên cho thế hệ hôm nay, ngăn chặn nguy cơ mai một vĩnh viễn.

Về ứng dụng khoa học công nghệ, một số CLB đã chủ động tạo dựng kênh YouTube, trang web giới thiệu hoạt động như CLB Ca trù Thái Hà (catru.vn), đăng tải video truyền dạy, biểu diễn. Tuy nhiên, chưa có một nền tảng dữ liệu tích hợp, chia sẻ rộng rãi phục vụ nghiên cứu - giáo dục - quảng bá.

Năm 2024, dự án tư liệu hóa bằng công nghệ số, cụ thể là lập bản đồ số di sản ca trù ở Vĩnh Phúc đã được triển khai, do Viện Văn hóa Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam chủ trì, với tên gọi Khảo sát dấu tích các giáo phường Ả đào thời xưa trên địa bàn Vĩnh Phúc. Đây là nghiên cứu mới về ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn và phát huy di sản ca trù lần đầu tiên được triển khai tại Vĩnh Phúc, đặc biệt có giá trị trong bối cảnh Vĩnh Phúc vốn từng là vùng đất phát triển rực rỡ của loại hình nghệ thuật này lại tiếp tục có nguy cơ bị thất truyền vĩnh viễn và mất dấu hoàn toàn các dấu tích lịch sử nếu không kịp thời xác lập lại.

Tóm lại, công tác nghiên cứu - tư liệu hóa - phục dựng ca trù đã có nền tảng, nhưng thiếu hệ thống tích hợp, thiếu chiến lược quốc gia gắn với khoa học công nghệ hiện đại. Để nâng cao hiệu quả bảo tồn, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, phát triển các công cụ số phục vụ bảo tồn - giáo dục - quảng bá, và hỗ trợ các địa phương phục dựng không gian diễn xướng, thể cách, cũng như đào tạo thế hệ nghệ nhân trẻ.

Truyền dạy, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực

Hoạt động truyền dạy và đào tạo ca trù giữ vai trò then chốt trong công tác bảo tồn và phát huy di sản, góp phần quyết định tính kế thừa và sức sống lâu dài của loại hình nghệ thuật này. Sau khi được UNESCO ghi danh (2009), nhiều địa phương đã chủ động phục hồi và tổ chức truyền dạy ca trù dưới các hình thức khác nhau, mặc dù vẫn còn hạn chế về quy mô, nguồn lực và hiệu quả bền vững.

Mô hình “nghệ nhân - học trò” tiếp tục là phương thức truyền dạy phổ biến, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình phục hồi. Tuy nhiên, mô hình này gặp nhiều khó khăn: nghệ nhân truyền dạy phần lớn đã cao tuổi, số học trò theo học ít, thiếu gắn bó lâu dài và phần lớn hoạt động không ổn định do thiếu kinh phí. Việc học chủ yếu mang tính truyền khẩu - thực hành.

Mô hình câu lạc bộ ca trù phát triển rõ rệt tại các địa phương như Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dạy, biểu diễn và tập huấn. Nhiều CLB tiêu biểu như CLB Ca trù Thăng Long, CLB Ca trù Phú Thị - Long Thành, CLB Ca trù Hà Nội, CLB Ca trù An Biên (Hải Phòng), CLB Ca trù Đông Môn (Hải Phòng), Giáo phường Ca trù Hải Phòng… đã tổ chức các lớp truyền dạy thường xuyên, thu hút học viên là học sinh, sinh viên, người làm văn hóa và nghệ sĩ trẻ. Tuy nhiên, đa số CLB còn phụ thuộc vào nguồn lực tự thân, thiếu cơ chế hỗ trợ dài hạn, dẫn đến gián đoạn hoạt động.

Một số CLB đặc biệt như Giáo phường Ca trù Hải Phòng đã có những bước đi bài bản trong truyền dạy, khôi phục nghi lễ hát cửa đình và hiệu chỉnh khuôn phách dưới sự hướng dẫn chuyên môn của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam (nay là Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam). Mô hình này cho thấy hiệu quả khi có sự phối hợp giữa nghệ nhân, nhà nghiên cứu và cơ quan quản lý.

Việc tích hợp ca trù vào trường học và cơ sở đào tạo mới chỉ ở mức độ thử nghiệm. Một số trường tiểu học tại Hải Phòng, Bắc Ninh, Hà Tĩnh đã đưa ca trù vào hoạt động ngoại khóa, còn các trường nghệ thuật như Học viện Âm nhạc Quốc gia, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học FPT… mới dừng lại ở nội dung giới thiệu, chưa có chương trình đào tạo chính quy.

Vai trò của các viện nghiên cứu, cơ quan văn hóa và chính quyền địa phương ngày càng rõ nét trong việc tổ chức các lớp tập huấn, truyền dạy nâng cao, hỗ trợ thiết bị, kinh phí và tổ chức liên hoan, giao lưu CLB. Tiêu biểu là các dự án tập huấn của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Hà Nội và Hải Phòng, với phương pháp lý thuyết hóa âm luật, khuôn thước ca trù, góp phần định hình phương pháp giảng dạy mới, tạo nhận thức chuyên sâu cho thế hệ kế cận.

Tuy nhiên, nhìn chung công tác truyền dạy và đào tạo ca trù hiện nay vẫn mang tính phân tán, thiếu liên kết vùng và thiếu ngân sách thường niên. Nhu cầu về cơ chế tài chính ổn định, chính sách hỗ trợ nghệ nhân, sự tham gia mạnh mẽ hơn của các cơ sở giáo dục, và phát triển lực lượng kế cận là những vấn đề cấp thiết cần giải quyết trong thời gian tới.

Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng

Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng về di sản nghệ thuật ca trù đã có nhiều chuyển biến tích cực, được triển khai với hình thức đa dạng, hướng đến nhiều nhóm đối tượng từ cộng đồng thực hành, học sinh, sinh viên đến công chúng đại chúng. Các hoạt động tiêu biểu có thể được phân thành bốn nhóm chính:

Truyền thông đại chúng, báo chí, truyền hình

Truyền thông đại chúng tiếp tục đóng vai trò chủ lực trong việc lan tỏa thông tin và kiến thức về ca trù đến công chúng rộng rãi. Các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương như Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh… thường xuyên thực hiện các chuyên mục, phóng sự, chương trình tọa đàm chuyên sâu giới thiệu về ca trù, các nghệ nhân tiêu biểu và mô hình bảo tồn tại địa phương.

Chương trình “Di sản Văn hóa Việt Nam” (VTV1, VTV3) đã phát sóng các chuyên đề giới thiệu nghệ thuật ca trù, trong đó có những nội dung tập trung vào hoạt động của các giáo phường, chân dung nghệ nhân như NSƯT Nguyễn Thị Chúc, NSND Xuân Hoạch, nghệ nhân Phạm Thị Huệ. Trên sóng phát thanh, các chương trình “Lắng nghe và cảm nhận”, “Giai điệu dân gian” của VOV3 cũng thường xuyên phát ca trù, góp phần duy trì tiếp xúc âm thanh với di sản.

Đáng chú ý, năm 2024, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội đã cho ra mắt bộ phim tài liệu Ca trù - Nhịp phách thăng trầm (đạo diễn Nguyễn Trung Thành), gồm ba tập: Hát Cửa Đình, Hát Cửa QuyềnHồi sinh. Đây là bộ phim tài liệu đầu tiên tái hiện lại toàn bộ tiến trình lịch sử ca trù. Bộ phim không chỉ cung cấp tri thức chuyên sâu về lịch sử, không gian diễn xướng, đặc trưng nghệ thuật của ca trù mà còn phản ánh quá trình hồi sinh di sản trong bối cảnh đương đại. Với hình ảnh giàu tính thẩm mỹ, âm thanh chất lượng và nhịp dựng phù hợp với tính chất trữ tình của nghệ thuật ca trù, bộ phim đã tiếp cận hiệu quả công chúng, đặc biệt là giới trẻ - nhóm đối tượng vốn ít tiếp xúc với loại hình nghệ thuật truyền thống này. Đây là minh chứng rõ nét về vai trò của truyền thông hiện đại trong giáo dục cộng đồng về di sản văn hóa phi vật thể.

Bên cạnh đó, một số cơ quan báo chí chuyên ngành như Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, Tạp chí Tia sáng đã công bố nhiều bài nghiên cứu giá trị về ca trù, do các học giả uy tín như Tô Ngọc Thanh, Đặng Hoành Loan, Bùi Trọng Hiền biên soạn.

Truyền thông số và mạng xã hội

Trong bối cảnh chuyển đổi số, mạng xã hội và nền tảng trực tuyến ngày càng trở thành công cụ hữu hiệu trong việc truyền bá ca trù đến giới trẻ và công chúng toàn cầu. Các kênh YouTube, fanpage Facebook, nền tảng TikTok do các CLB, nghệ nhân và tổ chức văn hóa vận hành đã tích cực chia sẻ video diễn xướng, clip giáo dục, tư liệu truyền dạy, hình ảnh sinh hoạt cộng đồng, qua đó tạo tương tác đáng kể với người theo dõi. Một số kênh tiêu biểu như: YouTube “Ca trù Thái Hà” (Hà Nội), fanpage “Ca trù Đông Môn - Hải Phòng”, nhóm “Đông Kinh cổ nhạc” đã duy trì nội dung định kỳ, phục vụ cả nhu cầu giải trí và học thuật.

Giáo dục trong nhà trường và hoạt động ngoại khóa

Một số địa phương đã tích cực đưa nội dung ca trù vào hoạt động giáo dục thông qua chương trình trải nghiệm, ngoại khóa và lồng ghép trong các tiết học âm nhạc. Tại Hải Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo triển khai chuyên đề tích hợp “Ca trù - Nét tinh hoa của âm nhạc dân tộc” tại Trường THCS Thị trấn Núi Đồi với sự tham gia của các nghệ nhân từ CLB Ca trù Đông Môn (Thủy Nguyên). Buổi học minh họa đã sử dụng phương pháp tích hợp, trải nghiệm, vận dụng các hình thức sinh hoạt như câu lạc bộ, diễn đàn, sân khấu tương tác, giao lưu nghệ nhân, tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận trực tiếp với di sản. Mô hình “Trường học Ca trù” của CLB Ca trù Thái Hà cũng là một sáng kiến đáng chú ý trong việc giáo dục nghệ thuật truyền thống cho học sinh phổ thông, góp phần tạo dựng thế hệ kế cận cho di sản.

Hoạt động học thuật, hội thảo và triển lãm chuyên đề

Các hội thảo, tọa đàm, triển lãm chuyên đề về ca trù được tổ chức tại nhiều cấp độ đã góp phần nâng cao nhận thức của giới nghiên cứu, quản lý và cộng đồng thực hành. Hội thảo quốc tế Hát Ca trù người Việt năm 2006 do Cục Di sản, Viện Âm nhạc và Nhạc viện Hà Nội phối hợp tổ chức được xem là một dấu mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu học thuật nhằm bảo tồn ca trù trước khi di sản này được UNESCO ghi danh.

Một trong những thành tựu nổi bật của hoạt động nghiên cứu học thuật là việc mô hình hóa hệ thống âm luật ca trù truyền thống - vốn từng thất truyền - do nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền thực hiện. Công trình này, đặc biệt thông qua Dự án “Hiệu chỉnh khuôn thước, âm luật và bài bản tại các CLB Ca trù Hải Phòng” (2020), đã cung cấp cơ sở lý thuyết và phương pháp thực hành mới cho cộng đồng nghệ nhân. PGS,TS Đặng Hoành Loan đánh giá cao việc ông Hiền đưa lý thuyết âm nhạc dân tộc trở lại với cộng đồng, điều mà ngay cả các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp vẫn còn hạn chế.

Nhìn tổng thể, nhận thức cộng đồng về nghệ thuật ca trù đã có bước tiến đáng kể so với thời điểm trước khi được UNESCO ghi danh (2009). Thế hệ trẻ ngày nay thể hiện sự quan tâm ngày càng rõ nét thông qua các hoạt động truyền thông số, giáo dục trải nghiệm và tương tác cộng đồng. Việc mở rộng không gian tiếp cận từ làng xã truyền thống đến trường học, nền tảng số, và mạng xã hội đã góp phần lan tỏa sâu rộng giá trị của di sản.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền - giáo dục vẫn còn thiếu tính hệ thống và chiến lược dài hạn. Chưa có chương trình truyền thông quốc gia chuyên biệt, bài bản và liên tục cho ca trù. Nội dung tuyên truyền hiện còn thiên về giới thiệu chung, thiếu tính chuyên sâu và không đủ hấp dẫn với nhóm đối tượng trẻ tuổi ở đô thị. Việc tích hợp giáo dục ca trù trong trường học vẫn ở giai đoạn thử nghiệm, chưa có giáo trình chuẩn và đội ngũ giảng dạy được đào tạo bài bản. Do đó, cần có giải pháp tổng thể nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục và phát huy vai trò của công nghệ hiện đại trong việc bảo vệ và truyền bá nghệ thuật ca trù trong bối cảnh hiện nay.

Tổ chức liên hoan, trình diễn, trưng bày, triển lãm, tổ chức lễ hội, sự kiện văn hóa

Các liên hoan ca trù cấp quốc gia và địa phương được tổ chức định kỳ nhằm kết nối nghệ nhân, câu lạc bộ và công chúng, tiêu biểu như các kỳ liên hoan toàn quốc (2009, 2011, 2014, 2018, 2020) với quy mô lớn, nhiều tiết mục đặc sắc, góp phần quảng bá, bảo tồn và thúc đẩy phong trào ca trù. Một số kỳ liên hoan còn khuyến khích sáng tác lời mới. Năm 2023, cuộc thi sáng tác lời thơ mới cho thể cách hát nói tại Hà Nội thu hút 135 tác phẩm, nhiều tác giả trẻ, cho thấy sức sống và sự kế thừa của nghệ thuật này. Một số tác phẩm đạt chất lượng cao được đề xuất ghi âm, phổ biến rộng rãi.

Ca trù cũng được lồng ghép vào nhiều lễ hội địa phương như Festival Hoa Phượng Đỏ (Hải Phòng) hay chương trình “Vọng khúc Ca trù” (Hà Nội), giúp di sản tiếp cận gần hơn với công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Một số CLB như Ca trù Hà Nội (tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Đình Kim Ngân) là mô hình tiên phong, đóng vai trò quan trọng trong việc phục dựng, truyền dạy và biểu diễn ca trù suốt hơn ba thập niên. Dù gặp khó khăn về kinh phí và không gian, CLB vẫn duy trì biểu diễn định kỳ phục vụ công chúng và du lịch, góp phần gìn giữ di sản sống.

Khu phố cổ Hà Nội hiện là không gian biểu diễn sôi động của ca trù, với các hoạt động tại Đình Kim Ngân, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Phố cổ, khu vực hồ Hoàn Kiếm, đền Bạch Mã, Hàng Buồm… Tuy nhiên, các chương trình còn phân tán, chất lượng chưa đồng đều, chủ yếu mang tính minh họa phục vụ du lịch, chưa thật sự chuyên nghiệp và chiều sâu học thuật.

Tại Hải Phòng, hoạt động ca trù đã có sự phục hồi đáng kể trong những năm gần đây. Các địa phương như Cổ Am (Vĩnh Bảo), Đông Môn (Thủy Nguyên), An Dương, An Lão... từng là những trung tâm ca trù truyền thống, nay đang từng bước khôi phục sinh hoạt và không gian diễn xướng. Dù từng có giai đoạn mai một nghiêm trọng, đến nay nhiều nghệ nhân, câu lạc bộ và nhóm trẻ đã tích cực tham gia truyền dạy, thực hành ca trù, góp phần bảo tồn tri thức dân gian. Các liên hoan, sự kiện trình diễn tại thành phố cảng, như Liên hoan nghệ thuật ca trù Hải Phòng mở rộng (2023), không chỉ thu hút đông đảo ca nương, kép đàn mà còn khẳng định vị thế của Hải Phòng như một điểm sáng trong công cuộc phát huy di sản. Đặc biệt, một số CLB ca trù tại đây đã chủ động kết hợp biểu diễn phục vụ du lịch và lồng ghép trong các lễ hội truyền thống, thể hiện sự thích ứng linh hoạt của di sản trong bối cảnh hiện đại.

 Cơ chế, chính sách

Việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù được triển khai trong khuôn khổ các chính sách quốc tế và quốc gia, trên cơ sở Công ước UNESCO 2003 và Luật Di sản văn hóa Việt Nam.

Ở cấp quốc tế, từ khi gia nhập Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Việt Nam đã thể hiện rõ cam kết trong việc thực hiện các nguyên tắc cốt lõi của Công ước, như: đảm bảo sự tham gia của cộng đồng, lập danh sách di sản cần bảo vệ khẩn cấp, xây dựng và triển khai các chương trình hành động quốc gia. Việc nghệ thuật ca trù được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp vào năm 2009 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về mặt chính sách, trở thành cơ sở để thúc đẩy các hành động cụ thể ở cả cấp quốc gia và địa phương.

Ở cấp trung ương, hệ thống pháp luật như Luật Di sản văn hóa (2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009; sửa đổi năm 2024), Nghị định 98/2010/NĐ-CP, 93/2023/NĐ-CP và mới nhất là 39/2024/NĐ-CP, đã xác lập rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc kiểm kê, tư liệu hóa, truyền dạy, phục dựng, tôn vinh nghệ nhân và lập hồ sơ di sản. Chính sách hỗ trợ nghệ nhân có tài năng, cũng như quy trình phong tặng danh hiệu đã được cụ thể hóa.

Trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, Luật Di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi năm 2024 là nền tảng pháp lý chủ đạo, quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có Ca trù. Luật Di sản văn hóa 2024 được nhìn nhận là một bước tiến quan trọng, vừa tạo hành lang pháp lý chặt chẽ để bảo vệ di sản, vừa khuyến khích khai thác bền vững và áp dụng công nghệ - xã hội hóa - cộng đồng hóa vào bảo tồn. Nó đồng thời khắc phục các lỗ hổng từ Luật năm 2009, nhất là trong khai thác giá trị, giám sát và mở rộng phạm vi áp dụng. Luật 2024 nhấn mạnh việc bảo vệ từ gốc, phát huy bằng thực hành sống, và quản lý bằng tư liệu hóa - số hóa - phân cấp rõ ràng, đồng thời khẳng định vai trò then chốt của cộng đồng và chính quyền địa phương trong bảo vệ di sản phi vật thể. Các điều khoản đáng chú ý bao gồm: Điều 15 và Điều 16: Quy định về việc duy trì thực hành, truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể và Nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa di sản. Điều 17 của Luật quy định rõ việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được kiểm kê và ghi danh: Di sản văn hóa phi vật thể đã được ghi danh vào Danh mục quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể và các danh sách của UNESCO phải có biện pháp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị sau ghi danh và thực hiện việc báo cáo theo quy định của pháp luật và quy định, hướng dẫn của UNESCO. Điều 18 quy định rõ các biện pháp Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một, thất truyền. So với Luật hiện hành, một trong những điểm mới của Luật 2024 như sau: Quy định chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động có tính đặc thù; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tham gia quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, số hóa di sản văn hóa, phát huy giá trị di sản văn hóa trên môi trường điện tử; Bổ sung Quỹ bảo tồn di sản văn hóa; quy định xã hội hóa, hợp tác công tư trong hoạt động bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hóa… Một điểm nhấn quan trọng khác của Luật Di sản văn hóa 2024 với các quy định liên quan đến việc chuyển đổi số, số hóa di sản văn hóa và phát huy giá trị di sản văn hoa trên môi trường điện tử. Việc chuyển đổi số di sản văn hóa quy định trong Luật góp phần thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số.

Trên cơ sở đó, các nghị định hướng dẫn được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực thi luật: Nghị định số 98/2010/NĐ-CP: Quy định quy trình kiểm kê, lập hồ sơ và công nhận di sản văn hóa phi vật thể, cùng với các chính sách hỗ trợ cộng đồng và nghệ nhân thực hành di sản. Nghị định số 93/2023/NĐ-CP: Cập nhật quy định về việc xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” và “Nghệ nhân ưu tú”, tạo khung pháp lý nhằm ghi nhận và tôn vinh các cá nhân có công lao trong việc bảo vệ và phát huy di sản, trong đó có nhiều nghệ nhân ca trù được thụ hưởng. Nghị định số 39/2024/NĐ-CP: Là một bước tiến mới, quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ di sản có nguy cơ mai một như ca trù, bao gồm: tư liệu hóa bài bản và không gian thực hành, phục hồi môi trường diễn xướng, hỗ trợ truyền dạy, trang bị công cụ, và xây dựng đề án bảo vệ khẩn cấp với nguồn kinh phí được phê duyệt theo thẩm quyền.

Tuy nhiên, các chính sách ở cấp trung ương hiện nay vẫn chủ yếu mang tính chất khuyến khích, nguồn lực tài chính chưa ổn định, và chưa đủ mạnh để đảm bảo sự phục hồi bền vững và dài hạn của nghệ thuật ca trù ở các địa phương.

Ở cấp địa phương, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành các nghị quyết và đề án cụ thể nhằm bảo tồn ca trù, gắn với điều kiện thực tiễn và đặc điểm văn hóa vùng miền. Các tỉnh như Hà Nội, Hà Tĩnh, Bắc Ninh, Nghệ An đã ban hành nghị quyết riêng, hỗ trợ tài chính, tổ chức lớp truyền dạy, liên hoan biểu diễn, lồng ghép bảo tồn ca trù với các loại hình di sản khác. Hà Nội là địa phương đi đầu, với Nghị quyết 23/2022/NQ-HĐND quy định mức hỗ trợ tài chính cho nghệ nhân và câu lạc bộ ca trù, theo hình thức định kỳ và một lần. Chính sách này đã tạo động lực rõ rệt cho hoạt động truyền dạy, biểu diễn, phục hồi không gian diễn xướng, và góp phần giúp Hà Nội trở thành nơi có số lượng nghệ nhân được phong tặng danh hiệu cao nhất cả nước. Hải Phòng tuy chưa có chính sách tài chính đặc thù, nhưng đã triển khai nhiều hoạt động tích cực: tổ chức Liên hoan Ca trù mở rộng, phối hợp đưa ca trù vào trường học, tạo điều kiện để các CLB Ca trù biểu diễn tại lễ hội và sự kiện văn hóa, góp phần nâng cao sự hiện diện của ca trù trong đời sống đương đại.

Nhìn chung, hệ thống chính sách hiện nay đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ và tôn vinh vai trò nghệ nhân. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế như: kinh phí thiếu ổn định, chính sách chưa đồng bộ, thiếu cơ chế dài hạn cho hoạt động CLB, bảo tồn không gian diễn xướng, và lồng ghép với giáo dục, du lịch còn chưa hiệu quả ở nhiều địa phương.

2. Hoạt động phát huy

Sáng tạo mới dựa trên kế thừa và phát triển giá trị truyền thống

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, nghệ thuật truyền thống Việt Nam đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ và các tổ chức tư nhân hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo văn hóa - nghệ thuật. Việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống hiện không chỉ là trách nhiệm của nghệ nhân hay các nhà nghiên cứu, mà đã mở rộng sang các chủ thể mới như nghệ sĩ đương đại, nhóm sáng tạo độc lập, tổ chức phi lợi nhuận và không gian sáng tạo tư nhân. Những chủ thể này đã góp phần định hình hệ sinh thái tiếp nhận và sáng tạo nghệ thuật truyền thống, thông qua việc tổ chức các chương trình trải nghiệm, tọa đàm, khóa học và hoạt động biểu diễn gắn với công nghệ và thị hiếu đương đại.

Trong dòng chảy đó, nghệ thuật ca trù - một loại hình di sản phi vật thể đặc sắc của Việt Nam - đang được tiếp cận, chuyển hóa và làm mới một cách sáng tạo. Nếu trước đây, các hoạt động bảo tồn chủ yếu tập trung vào phục dựng hình thức truyền thống và truyền dạy qua các mô hình CLB hoặc cá nhân nghệ nhân, thì hiện nay, ca trù đang được thử nghiệm trong nhiều không gian và hình thức mới, thể hiện xu hướng bảo tồn đi đôi với đổi mới sáng tạo.

Các nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ và tổ chức sáng tạo độc lập giữ vai trò then chốt trong tiến trình này. Họ không chỉ là người lưu giữ di sản, mà còn là những tác giả sáng tạo kể lại câu chuyện của ca trù bằng ngôn ngữ nghệ thuật mới, gắn với thẩm mỹ đương đại và công nghệ số. Những cách tiếp cận này không phá vỡ cấu trúc truyền thống của loại hình, mà tạo thêm chiều kích biểu đạt, giúp khán giả tiếp cận di sản theo cách linh hoạt và gần gũi hơn.

Một đặc điểm nổi bật là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các không gian văn hóa sáng tạo, với tính chất di động, linh hoạt cả về địa điểm lẫn mô hình hoạt động. Các không gian này có thể là quán cà phê nghệ thuật, phòng thu, nhà hát độc lập, hoặc nền tảng số, cho phép tổ chức các sự kiện gắn với ca trù mà không cần không gian biểu diễn cố định. Đây là môi trường thuận lợi để thử nghiệm các hình thức kết hợp giữa ca trù và các loại hình đương đại như nhạc điện tử, nghệ thuật thị giác, sân khấu thể nghiệm, phim ngắn hoặc các trò chơi tương tác.

Một số xu hướng nổi bật có thể nhận diện bao gồm:

Khuyến khích sáng tạo trong bảo tồn: Nhằm xây dựng tệp khán giả mới, đặc biệt là người trẻ, nhiều nghệ sĩ và nhóm sáng tạo đã sử dụng các nền tảng kỹ thuật số như livestream trên Facebook, YouTube, TikTok… để đưa nghệ thuật truyền thống đến gần công chúng. Ca trù không còn bị giới hạn trong không gian hàn lâm, mà được kể lại bằng ngôn ngữ trực quan, sinh động hơn.

Đa dạng hóa trải nghiệm nghệ thuật: Các nhóm như Domdom, Xplus Studio, Lenngan… đã tiên phong xây dựng các sản phẩm nghệ thuật thể nghiệm kết hợp nghệ thuật truyền thống với âm nhạc điện tử, nghệ thuật thị giác và media mới. Họ không bán sản phẩm, mà bán trải nghiệm nghệ thuật - một khái niệm quan trọng trong phát triển công nghiệp văn hóa.

Thể nghiệm trình diễn hiện đại: Một số buổi diễn thử nghiệm như chương trình kết hợp nhạc điện tử với ca trù, kèn Xona (kèn bóp trong nghệ thuật tuồng) và các loại nhạc cụ dân tộc tại Trung tâm Văn hóa Italy (TP.HCM, đầu năm 2025) đã thu hút sự quan tâm lớn. Sự kết hợp táo bạo giữa truyền thống và hiện đại vừa giữ được bản sắc, vừa tiếp cận thị hiếu thị giác và thính giác hiện đại, nhưng lại đưa khán giả tìm về với những giá trị nguyên bản của loại hình này.

Sản phẩm văn hóa ứng dụng: Một số dự án nghệ thuật tiêu biểu như Dự án “Người lạ bàn chuyện quen” - một không gian sáng tạo trực tuyến - đã sử dụng nghệ thuật truyền thống như chất liệu để thiết kế các sản phẩm ứng dụng như túi tote, bài tarot, tranh, podcast, hay tổ chức mini games... Những sản phẩm này không chỉ giúp lan tỏa giá trị di sản, mà còn đóng vai trò truyền thông, gây quỹ và mở rộng mạng lưới khán giả.

Tận dụng nền tảng số và công nghệ: Các nhóm nghệ sĩ, tổ chức sáng tạo hiện nay đang khai thác hiệu quả các nền tảng số để trình diễn, phổ biến kiến thức và xây dựng cộng đồng yêu thích ca trù. Điều này giúp loại hình nghệ thuật này vượt qua rào cản về không gian và thời gian, thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số.

Phát triển mô hình giáo dục nghệ thuật truyền thống: Nhiều trung tâm như Trung tâm Âm nhạc truyền thống Thăng Long, Trung tâm Xúc tiến và Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể… tổ chức lớp học, buổi biểu diễn định kỳ giúp duy trì hoạt động nghệ nhân và giáo dục thẩm mỹ truyền thống. Việc biểu diễn tại quán cà phê, không gian tư nhân đã giúp hình thành cộng đồng khán giả trung thành.

Kết nối thế hệ và phát triển cộng đồng sáng tạo: Các hoạt động sáng tạo khuyến khích sự gặp gỡ giữa nghệ nhân kỳ cựu với nghệ sĩ trẻ, tạo điều kiện trao truyền tri thức văn hóa một cách tự nhiên. Đây là yếu tố then chốt để xây dựng hệ sinh thái sáng tạo bền vững từ di sản. Một minh chứng sinh động là chương trình Vọng khúc Ca trù thuộc dự án Việt Hòa Ca của nhóm sinh viên khoa Viết văn - Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Chương trình đã tái hiện không gian biểu diễn truyền thống, kết hợp giao lưu với ca nương, quan viên, kép đàn, mang đến trải nghiệm vừa học thuật vừa tương tác cho khán giả trẻ.

Các không gian sáng tạo văn hóa - nghệ thuật đang trở thành vườn ươm quan trọng cho các ý tưởng mới gắn với nghệ thuật truyền thống. Đây là nơi sản sinh những phương thức tiếp cận mới, tạo điều kiện để ca trù tiếp tục tồn tại, phát triển, thích ứng với thời đại, và có khả năng sinh lợi trong nền kinh tế sáng tạo. Từ thực tiễn này, có thể khẳng định rằng: sáng tạo mới dựa trên kế thừa không chỉ giúp giữ gìn di sản, mà còn là một chiến lược phát triển hiệu quả, hướng tới công nghiệp văn hóa bền vững tại Việt Nam.

Gắn với phát triển kinh tế

Trong bối cảnh chuyển dịch từ mô hình bảo tồn thuần túy sang phát huy giá trị di sản trong nền kinh tế sáng tạo, nghệ thuật ca trù - một loại hình di sản văn hóa phi vật thể có tính nghệ thuật cao và đặc thù - đang từng bước được tích hợp vào các hoạt động phát triển kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch văn hóa. Một số địa phương như Hà Nội, Hội An (Quảng Nam) và Thủy Nguyên (Hải Phòng) đã bước đầu thử nghiệm những mô hình kết hợp trình diễn ca trù với dịch vụ du lịch và giáo dục trải nghiệm, mở ra tiềm năng đưa loại hình nghệ thuật này trở thành một thành tố trong chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa địa phương.

Tại Hà Nội - mô hình trình diễn ca trù trong không gian du lịch di sản

Hà Nội là một trong những địa phương tiên phong trong việc phục hồi, bảo tồn và phát huy giá trị ca trù sau khi loại hình này được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp (2009). Từ năm 2014, các Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội và Thăng Long đã phối hợp với Ban Quản lý Phố cổ tổ chức định kỳ các buổi trình diễn ca trù vào tối thứ bảy hằng tuần tại đình Kim Ngân (42 Hàng Bạc), thu hút sự quan tâm của du khách trong nước và quốc tế. Các chương trình kết hợp trình diễn nghệ thuật, giới thiệu nhạc cụ, lịch sử, trang phục và cấu trúc bài bản của ca trù với lời dẫn song ngữ, tạo điều kiện để công chúng tiếp cận nghệ thuật hàn lâm này một cách sinh động và hiệu quả hơn.

Mô hình này cũng cho thấy khả năng tạo nguồn thu trực tiếp từ hoạt động nghệ thuật, mang lại thu nhập bổ sung cho nghệ nhân và nghệ sĩ, đồng thời khẳng định giá trị kinh tế của di sản nếu được khai thác đúng hướng. Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn ở quy mô nhỏ, mang tính thử nghiệm, chưa tích hợp trong hệ sinh thái du lịch văn hóa - lịch sử rộng lớn của thủ đô, và thiếu sự kết nối với các doanh nghiệp lữ hành để mở rộng thị trường.

Bên cạnh đó, chương trình Chuyện Nhạc Phố Cổ do nhóm Đông Kinh Cổ Nhạc khởi xướng đã góp phần đổi mới phương thức truyền tải nghệ thuật truyền thống, trong đó có ca trù, đến với công chúng trẻ tuổi. Việc kết hợp ca trù với các loại hình nghệ thuật truyền thống khác như chèo, xẩm, chầu văn trong không gian phố cổ đã mở rộng phạm vi tiếp cận khán giả và tạo môi trường giao lưu văn hóa sống động, cho thấy tiềm năng phát triển ca trù không chỉ như một “di sản cần bảo tồn” mà còn là một “sản phẩm văn hóa có khả năng lan tỏa”.

Tại Hội An - lồng ghép ca trù vào không gian du lịch văn hóa và lễ hội

Tại thành phố Hội An - một điểm đến nổi bật về du lịch di sản - ca trù được lồng ghép trong các hoạt động văn hóa định kỳ như Đêm phố cổ, song hành cùng các loại hình nghệ thuật dân gian miền Trung như bài chòi, tuồng, hát bội. Một số tiết mục ca trù được trình diễn tại các nhà cổ hoặc sân đình với mục tiêu nâng cao trải nghiệm văn hóa cho du khách. Tuy nhiên, hình thức này còn mang tính chất điểm xuyết, phi lợi nhuận, chưa hình thành sản phẩm du lịch chuyên biệt, chủ yếu do thiếu lực lượng nghệ nhân biểu diễn thường trực và thiếu cơ chế tổ chức chuyên nghiệp.

Ngoài ra, ca trù đã được đưa vào một số sự kiện giao lưu quốc tế tổ chức tại Hội An, bước đầu góp phần quảng bá loại hình này trong môi trường liên văn hóa. Tuy vậy, để xây dựng thương hiệu văn hóa - du lịch bền vững cho ca trù tại Hội An, cần có chiến lược dài hạn và sự đầu tư đồng bộ hơn về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và liên kết ngành.

Tại Thủy Nguyên (Hải Phòng) - mô hình giáo dục trải nghiệm gắn với di sản

Tại làng Đông Môn (xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) - một trong những địa phương có truyền thống ca trù lâu đời - mô hình giáo dục trải nghiệm gắn với ca trù đang được thử nghiệm bởi CLB Ca trù Đông Môn. Thông qua các chương trình biểu diễn tại đình làng cổ, kết hợp hoạt động tìm hiểu lịch sử địa phương, ca trù dần trở thành một phần của sản phẩm du lịch sinh thái và văn hóa cộng đồng. Một số không gian như nhà hàng Cơm niêu Đồng Cau đã trở thành điểm biểu diễn định kỳ của các CLB ca trù, tạo môi trường gắn kết giữa nghệ sĩ, người dân và du khách.

Tuy nhiên, cũng như tại các địa phương khác, việc tích hợp ca trù vào phát triển kinh tế tại Hải Phòng còn mang tính tự phát, chưa có mô hình kinh doanh - dịch vụ ổn định lấy di sản làm trung tâm. Thiếu chiến lược dài hạn, thiếu chính sách hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo từ di sản, và chưa kết nối với các ngành công nghiệp văn hóa khác như xuất bản, thiết kế, công nghệ số... khiến tiềm năng kinh tế của ca trù vẫn chưa được khai mở đầy đủ.

Nhìn chung, việc gắn ca trù với phát triển kinh tế mới manh nha, chưa đạt tới độ chuyên nghiệp, quy mô hoặc tính hệ thống. Những rào cản chủ yếu nằm ở đặc thù nghệ thuật hàn lâm của ca trù - khó tiếp cận đại chúng nếu không có trung gian ngôn ngữ, nội dung và hình thức tổ chức phù hợp - cùng với sự thiếu hụt về chính sách, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực sáng tạo chuyên biệt.

Để khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế của ca trù, cần thiết xây dựng các mô hình phát triển chuỗi giá trị di sản, trong đó ca trù không chỉ là nội dung biểu diễn đơn lẻ, mà còn là chất liệu sáng tạo cho các sản phẩm - dịch vụ văn hóa đặc thù: sách ảnh, phim tài liệu, trò chơi tương tác, ứng dụng thực tế ảo, ấn phẩm du lịch cao cấp... Đồng thời, cần lồng ghép ca trù trong các chính sách phát triển du lịch địa phương và quốc gia, khuyến khích doanh nghiệp và cộng đồng tham gia sáng tạo, bảo tồn và thương mại hóa di sản một cách bền vững.

Gắn với phục vụ chính trị

Việc sử dụng ca trù trong các sự kiện chính trị - văn hóa là minh chứng sinh động cho chủ trương bảo tồn gắn với phát huy di sản trong bối cảnh hiện đại. Đây không chỉ là cách tôn vinh một loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc mà còn là phương tiện khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trên các diễn đàn quan trọng của     đất nước.

Trong các sự kiện lớn như Lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội (2010) hay Ngày hội Di sản văn hóa Việt Nam tổ chức hằng năm tại Hà Nội, Ca trù thường được lựa chọn trình diễn nhằm thể hiện chiều sâu văn hóa, tạo điểm nhấn nghệ thuật cho chương trình. Các CLB Ca trù như Thăng Long, Nguyễn Công Trứ (Hà Nội), Hải Phòng, Hà Tĩnh… đã tham gia biểu diễn trong các lễ khai mạc, hội thảo chuyên đề, qua đó quảng bá hình ảnh Ca trù đến đông đảo công chúng trong nước và quốc tế. Đặc biệt, tại Lễ hội Quà tặng Du lịch Hà Nội 2025, ca trù được kết hợp sáng tạo với dòng nhạc EDM hiện đại, mở ra hướng tiếp cận mới mẻ, gần gũi hơn với giới trẻ. Cuộc đối thoại giữa truyền thống và hiện đại này giúp ca trù không chỉ được giữ gìn như một “ký ức văn hóa” mà còn trở thành “nhịp đập” sống động của đời sống đương thời.

Bên cạnh đó, ở các địa phương như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hải Phòng… ca trù được biểu diễn thường xuyên trong các lễ hội truyền thống, ngày hội đại đoàn kết toàn dân, lễ kỷ niệm thành lập địa phương hoặc chương trình mừng Đảng - mừng Xuân. Tại lễ hội đền Cùng - đền Suốt (Hà Tĩnh), CLB Ca trù Cổ Đạm tái hiện các tiết mục chầu mời, hát thi, góp phần khôi phục không gian diễn xướng cổ. Ở đình, đền Đông Môn (Thủy Nguyên, Hải Phòng), CLB Ca trù Đông Môn biểu diễn định kỳ mỗi dịp lễ Tết, không chỉ như một nghi lễ dân gian mà còn như một hình thức giáo dục lịch sử - văn hóa và tuyên truyền giá trị di sản trong cộng đồng.

Những hoạt động này đã góp phần đưa ca trù trở lại với đời sống cộng đồng một cách tự nhiên và linh hoạt, khẳng định vai trò của di sản trong việc phục vụ mục tiêu chính trị - văn hóa, đồng thời nâng cao nhận thức xã hội về việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống trong thời đại mới.

Gắn với ngoại giao văn hóa

Ca trù như một “đại sứ văn hóa” trong ngoại giao văn hóa, từng được chọn biểu diễn trong các sự giao lưu văn hóa quốc tế, triển lãm Việt Nam tại nước ngoài. Trong các chương trình giới thiệu văn hóa Việt Nam tại nước ngoài, ca trù đã được giới thiệu như một loại hình âm nhạc độc đáo, tiêu biểu cho trí tuệ, cảm xúc và truyền thống thẩm mỹ của người Việt. Tại một số lễ đón chính khách quốc tế tại Việt Nam, ca trù từng được trình diễn như một phần “giao đãi văn hóa”, tạo ấn tượng sâu sắc về bản sắc dân tộc Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, mức độ đưa ca trù ra quốc tế còn ít, chưa có các dự án hợp tác quốc tế quy mô về nghiên cứu, đào tạo hay giao lưu thường xuyên.

Vào năm 1993, nhóm nghệ nhân ca trù Thái Hà là một trong những đoàn nghệ thuật đầu tiên của Việt Nam mang ca trù biểu diễn tại Pháp. Sự kiện này đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của công chúng và giới chuyên môn, mở ra cơ hội cho ca trù tiếp cận với khán giả quốc tế. Sau đó, đoàn tiếp tục được mời biểu diễn tại nhiều quốc gia châu Âu như Anh, Ý, Hà Lan và Bỉ, góp phần lan tỏa giá trị nghệ thuật truyền thống của Việt Nam ra thế giới.

Nghệ sĩ Phạm Thị Huệ, sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội, đã đại diện Việt Nam tham gia nhiều chương trình giao lưu văn hóa quốc tế. Năm 2001, cô tham gia một lễ hội âm nhạc truyền thống tại Thái Lan và một chương trình giao lưu giữa Học viện Âm nhạc Malmo (Thụy Điển) và Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Những hoạt động này không chỉ giúp quảng bá ca trù mà còn thúc đẩy sự hiểu biết và hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và các nước.

Năm 2019, NSƯT Nguyễn Thị Thu Hằng được chính quyền tỉnh Kagawa (Nhật Bản) mời tham gia “Liên hoan nghệ thuật giao lưu văn hóa giữa các nước châu Á và Nhật Bản” trong khuôn khổ lễ hội Setouchi trên đảo Awashiwa. Tại đây, cô đã biểu diễn bài ca trù kinh điển Hồng Hồng, Tuyết Tuyết, nhận được sự khen ngợi từ báo chí và khán giả Nhật Bản, góp phần giới thiệu sâu rộng nghệ thuật ca trù đến công chúng quốc tế.

Ngày 23-2-2020, nhân ngày Giỗ tổ ca trù, Google đã thay đổi biểu tượng trên trang chủ của mình để tôn vinh loại hình nghệ thuật này. Hình ảnh ca trù được giới thiệu trên Google Doodle đã thu hút sự chú ý của hàng triệu người dùng trên toàn thế giới, nâng cao nhận thức và sự quan tâm đối với nghệ thuật truyền thống của Việt Nam.

3. Kết luận

Trải qua nửa thế kỷ kể từ ngày đất nước thống nhất, nghệ thuật ca trù - vốn từng có thời kỳ bị “kỳ thị” và đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền vĩnh viễn - đã có hành trình phục hưng đầy nỗ lực và ý nghĩa. Từ sự trở lại trên các sân khấu truyền thống, lễ hội văn hóa cho đến việc được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp (2009), ca trù đã từng bước xác lập lại vị trí trong đời sống tinh thần người Việt như một biểu tượng của giá trị nghệ thuật bác học, thanh nhã và trí tuệ.

Thành tựu lớn nhất trong quá trình này là việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy di sản: các nghệ nhân và câu lạc bộ ca trù ở nhiều địa phương đã được phục hồi và hỗ trợ; hoạt động truyền dạy được tổ chức đa dạng từ cấp cơ sở đến trung ương; công nghệ được ứng dụng để tư liệu hóa, số hóa và giới thiệu ca trù tới công chúng hiện đại. Đặc biệt, việc đưa ca trù vào các không gian sáng tạo, chương trình du lịch văn hóa, lễ hội hiện đại và cả các sự kiện chính trị - ngoại giao đã mở ra những cơ hội mới để ca trù “sống” và “sống động” trong lòng xã hội đương đại.

Tuy nhiên, ca trù cũng đang đối diện với nhiều thách thức: Thứ nhất, nguy cơ đứt gãy truyền thống vẫn còn hiện hữu, do lực lượng nghệ nhân cao tuổi ngày một ít, trong khi lớp kế cận còn mỏng và thiếu môi trường thực hành thường xuyên, ca trù lại là thứ âm nhạc khó học khó nghe. Thứ hai, nhiều giá trị gốc của ca trù có nguy cơ bị mai một do đào kép hiện đại không nắm được khuôn thước, âm luật cổ truyền. Thứ ba, công tác bảo tồn hiện vẫn dựa nhiều vào nỗ lực tự thân của cộng đồng và một số cá nhân, chưa có chiến lược quốc gia dài hạn và đồng bộ. Ngoài ra, việc kết nối ca trù với phát triển kinh tế - văn hóa vẫn còn ở dạng tiềm năng. Các mô hình du lịch văn hóa, trải nghiệm giáo dục hay công nghiệp văn hóa gắn với ca trù còn manh mún, thiếu chiến lược dài hạn, thị trường tiêu thụ còn nhỏ hẹp và thiếu chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia khai thác di sản. Hệ sinh thái hỗ trợ phát triển công nghiệp văn hóa còn yếu, nhiều địa phương thiếu chiến lược cụ thể gắn di sản với kinh tế sáng tạo. Việc tiếp cận công chúng trẻ cần được đổi mới hơn nữa để tránh sự “đóng khung” di sản trong không gian bảo tồn mà không lan tỏa được giá trị văn hóa đương đại.

Từ thực tiễn đó, triển vọng phát triển bền vững ca trù đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới cách tiếp cận. Tương lai của ca trù phụ thuộc vào khả năng kết hợp hài hòa giữa bảo tồn nguyên gốc với sáng tạo đương đại, giữa vai trò của cộng đồng và chính sách của Nhà nước, giữa giá trị tinh thần và tiềm năng kinh tế của di sản. Những nỗ lực hiện nay trong số hóa di sản, phát triển không gian sáng tạo, tích hợp ca trù vào giáo dục và du lịch văn hóa, nếu được đầu tư bài bản, có thể mở ra con đường phát triển bền vững cho ca trù. Đặc biệt, sự quan tâm ngày càng lớn từ giới trẻ, các nghệ sĩ đương đại và các tổ chức sáng tạo độc lập là dấu hiệu tích cực, khẳng định sức sống nội tại và khả năng thích ứng linh hoạt của di sản này trong bối cảnh mới. Ca trù - từ một hình thức nghệ thuật hàn lâm của quá khứ - đang dần định hình lại vai trò trong đời sống văn hóa hiện đại, như một nhịp nối giữa truyền thống và tương lai, giữa căn cốt dân tộc và thế giới hội nhập. Tăng cường kết nối giữa nhà nước - nghệ nhân - nhà sáng tạo - doanh nghiệp - cộng đồng để hình thành một chuỗi giá trị, xây dựng hệ sinh thái bền vững cho bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống trong đó có ca trù.

Ca trù không chỉ là một “ký ức nghệ thuật”, mà hoàn toàn có thể trở thành một thành tố năng động trong bản sắc văn hóa đương đại nếu được nhìn nhận như một nguồn lực sáng tạo. Hành trình phục hưng và phát triển ca trù trong 50 năm qua là minh chứng sống động cho khả năng tái sinh của các giá trị truyền thống khi được chăm sóc, đổi mới và đặt đúng vị trí trong chiến lược phát triển văn hóa con người Việt Nam.

                           

Tham luận tại Hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6-2025 .

                            

Tài liệu tham khảo

1. Bùi Thị Kim Phượng, Vietnam Ca Tru Singing: From Heritage Revival to Conservation and Sustainable Development of Traditional Music Heritage (Hát Ca Trù Việt Nam: Từ phục hồi di sản đến bảo tồn và phát triển bền vững di sản âm nhạc truyền thống), Journal of Tourism, Hospitality and Environmental Management (Jthem) (Tạp chí Quản lý Du lịch, Khách sạn và Môi trường), EISSN: 0128-178X, Volume 9 Issue 37, 9 - 2024, tr.136-146.

2. Bùi Trọng Hiền, Ca trù nhìn từ sử liệu, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, 8-2006, tr.24-28, 39.

3. Bùi Trọng Hiền, Không gian văn hóa - các chức năng văn hóa xã hội và những hình thức biểu hiện của nghệ thuật Ca trù, Đặc khảo Ca trù Việt Nam, Viện Âm nhạc xuất bản, Hà Nội, 2006.

4. Bùi Trọng Hiền, Bảo tồn ca trù nhìn từ luật tục giáo phường, Tạp chí Tia sáng, số 23, 2009, tr.48-50.

5. Bùi Trọng Hiền, Ả Đào, Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật, Nxb Văn học, Hà Nội, 2023.

6. Đặng Hoành Loan, Nghiên cứu nhạc cụ truyền thống Việt Nam từ thực tiễn điền dã, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2024.

7. Nguyễn Đôn Phục, Khảo luận về cuộc hát ả- đào, Tạp chí Nam Phong, số 70,  4-1923.

8. Nguyễn Phạm Hùng, Khai thác nghệ thuật ca trù phục vụ du khách, Tạp chí Du lịch, số 10, 2015, tr.31-32

9. Nhiều tác giả, Đặc khảo ca trù Việt Nam, Viện Âm nhạc xuất bản, Hà Nội, 2006.

 

Ths. BÙI THỊ KIM PHƯƠNG

Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam

;