Di sản văn hóa là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa dân tộc, đồng thời là nguồn lực nội sinh thiết yếu phục vụ phát triển bền vững đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam đặt ra những yêu cầu mới về thể chế, nguồn lực, công nghệ và sự tham gia của toàn xã hội.
Nhân dân và du khách tham quan di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ - Ảnh: Trần Huấn
1. Những thành tựu nổi bật của ngành Di sản văn hóa
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về di sản văn hóa
Quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam được hình thành và tiếp nối trên một chặng đường lịch sử từ ngày thành lập nước tới nay. Chỉ chưa đầy 3 tháng sau khi đất nước giành được độc lập, ngày 23-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, trong đó nêu rõ: “Việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”. Đây là Sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước ta về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Năm 1957, khi đất nước mới bước ra từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 29-10-1957, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 519/TTg quy định thể lệ về bảo tồn cổ tích. Sau khi đất nước thống nhất, ngày 4-4-1984, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh số 14 LCT/HĐNN về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, đồng thời, để thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 và tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), cuối năm 1998, việc soạn thảo Luật Di sản văn hóa đã được triển khai. Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 29-6-2001, có hiệu lực từ ngày 1-1-2002 và được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009. Luật đã cụ thể hóa chính sách bảo vệ, phát huy di sản văn hóa dân tộc theo quan điểm của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần khẳng định rõ quan điểm: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Nghị quyết số 33-NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; Kết luận số 76-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng định hướng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
Trên cơ sở đó, Cục Di sản văn hóa đã tích cực, chủ động xây dựng, hoàn thiện Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), ngày 23-11-2024 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 15 Luật đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2025. Đây là bước tiến quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của nước ta trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng hiện đại hóa. Luật gồm 9 chương, 95 điều, điều chỉnh hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa bao quát các lĩnh vực: di sản văn hóa phi vật thể, di sản văn hóa vật thể, di sản tư liệu và bảo tàng, cụ thể hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa và di sản văn hóa, khắc phục những bất cập, những vướng mắc của thực tiễn phát sinh chưa có quy định pháp luật điều chỉnh, nội luật hóa các công ước của UNESCO mà Việt Nam tham gia, đặc biệt gia tăng các quy định để di sản văn hóa thực sự trở thành nguồn lực vừa phát huy giá trị vừa đóng góp vào phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo cơ chế thúc đẩy hợp tác công tư, tạo nguồn lực cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Công tác kiểm kê, xếp hạng và ghi danh di sản
65 năm qua, cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được Đảng, Nhà nước và Nhân dân quan tâm, coi trọng, để lại nhiều dấu ấn và thành quả quan trọng. Đến nay, cả nước đã kiểm kê được hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể; trong đó có 36 di sản được UNESCO ghi danh (gồm 9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 16 di sản văn hóa phi vật thể, 11 di sản tư liệu); 138 di tích quốc gia đặc biệt, 3.653 di tích quốc gia, 11.232 di tích cấp tỉnh và 620 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Toàn quốc có 327 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia; hơn 200 bảo tàng công lập và ngoài công lập đang lưu giữ trên 4 triệu tài liệu, hiện vật có giá trị.
Trong 3 đợt xét tặng danh hiệu nghệ nhân theo Nghị định số 62/2014/NĐ-CP, đã có 131 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” và 1.619 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”, thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước đối với các cá nhân có đóng góp xuất sắc trong gìn giữ, trao truyền di sản văn hóa phi vật thể.
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
Những năm qua, thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, ngân sách nhà nước hằng năm đều quan tâm cấp cho mục tiêu bảo tồn chống xuống cấp di tích, kết quả như sau: giai đoạn 2001-2005: 533 di tích, kinh phí 518,35 tỷ đồng; giai đoạn 2006-2010: 1.218 di tích, kinh phí 1.510,47 tỷ đồng; giai đoạn 2011-2015: 1.302 di tích, kinh phí 1.436,844 tỷ đồng; giai đoạn 2016-2020: 471 di tích, kinh phí 245 tỷ đồng (chưa bao gồm một số di tích quốc gia đặc biệt, di sản thế giới được hỗ trợ đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công). Công tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đã đạt được những hiệu quả tích cực, đã huy động được nguồn vốn không nhỏ từ các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng và nguồn vốn viện trợ của UNESCO, các tổ chức Chính phủ, phi Chính phủ cho bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích.
Các bảo tàng tiếp tục được đổi mới về phương thức hoạt động, theo hướng tăng cường hiện vật gốc và ứng dụng thành tựu của khoa học kỹ thuật để làm phong phú và hấp dẫn nội dung trưng bày, đổi mới hình thức phục vụ công chúng; xây dựng các phòng giáo dục và chương trình giáo dục dành riêng cho học sinh phổ thông; chủ động kết hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức thường xuyên các cuộc trưng bày chuyên đề; kết hợp với việc trình diễn, giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể tại bảo tàng, nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục truyền thống nâng cao văn hóa, khoa học cho công chúng, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh, đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc quản lý, bảo vệ di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia tại di tích đã có những bước tiến rõ rệt hơn. Theo thống kê những năm gần đây số vụ mất cắp cổ vật tại di tích đã giảm cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng, hầu hết các vụ vi phạm đều được các cơ quan điều tra giải quyết kịp thời, nhiều vụ việc được xử lý, trả lại cổ vật bị mất cắp cho di tích. Hầu như không còn tình trạng thăm dò, khai quật địa điểm khảo cổ không có giấy phép của Bộ trưởng Bộ VHTTDL (trường hợp khai quật thông thường), của Chủ tịch UBND cấp tỉnh (trường hợp khai quật khẩn cấp). Việc tự ý tìm kiếm, đào bới làm sai lệch hoặc gây nguy cơ xâm hại, hủy hoại địa điểm khảo cổ, di vật khảo cổ; trao đổi, mua bán và vận chuyển trái phép di vật khảo cổ đã giảm hẳn.
Di sản văn hóa phi vật thể được sưu tầm nghiên cứu, phục dựng, trao truyền và tổ chức trình diễn đã trực tiếp nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế, xã hội cộng đồng cư dân tại địa phương. Các di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục quốc gia, quốc tế; các nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” đã khơi dậy niềm tự hào và khuyến khích mạnh mẽ các cộng đồng có di sản, các cấp chính quyền địa phương, toàn xã hội quan tâm, tự nguyện và chủ động tham gia bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, đẩy mạnh giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của địa phương, tạo thêm động lực trong quá trình xã hội hóa các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Tại một số địa phương, nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành những điểm đến thu hút khách trong và ngoài nước, tạo nên thương hiệu/ dấu ấn riêng của địa phương có di sản (lễ hội đền Sóc, chùa Hương ở Hà Nội, lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ, Ca Huế, lễ hội Bà Chúa Xứ An Giang...).
Các di sản tư liệu góp phần vào việc tuyên truyền văn hóa đọc, nâng cao tinh thần ham học, giáo dục truyền thống lịch sử, phát huy bản sắc dân tộc. Ngoài ra, di sản tư liệu còn góp phần quan trọng trong việc xác định và bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc, nghiên cứu tổ chức, bộ máy điều hành của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản
Từ năm 2003 đến nay, Cục Di sản văn hóa đã xây dựng, nâng cấp và triển khai sử dụng thống nhất trên toàn quốc 4 hệ thống thông tin quản lý ở các lĩnh vực quản lý nhà nước như Hệ thống thông tin quản lý bảo tàng, Hệ thống thông tin quản lý di tích, Hệ thống thông tin quản lý di sản văn hóa phi vật thể và Hệ thống thông tin quản lý hiện vật.
Cục Di sản văn hóa đang triển khai thực hiện Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021-2025 (theo Quyết định số 1230/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ); Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030 (theo Quyết định số 2026/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) và xây dựng Danh mục và kế hoạch triển khai các nền tảng số
quốc gia, nền tảng số dùng chung của ngành, lĩnh vực, vùng (theo Quyết định số 1527/QĐ-BKHCN). Đồng thời, Cục Di sản văn hóa đang phối hợp với Ban Quản lý đầu tư xây dựng triển khai thực hiện dự án Xây dựng nền tảng, cơ sở dữ liệu quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa với mục tiêu xây dựng nền tảng quản lý, chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu ở dạng số các di sản văn hóa vật thể quý giá của văn hóa Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu nghiên cứu văn hóa; phục dựng, trùng tu, cải tạo, sửa chữa; xúc tiến quảng bá du lịch và triển khai kinh tế số của ngành, phát huy tối đa các giá trị nền văn hóa đặc sắc của Việt Nam.
Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số không chỉ giúp tối ưu hóa công tác quản lý nhà nước, mà còn mở ra không gian mới để quảng bá, lan tỏa giá trị di sản văn hóa trong nước và quốc tế một cách sáng tạo, hiệu quả và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030: “Mỗi di sản của Việt Nam đều có hiện diện số và hình thành bản di sản số để người dân, khách du lịch có thể truy cập thuận lợi trên môi trường số”.
Giáo dục, truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng
Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa đã được triển khai đồng bộ, từ trường học đến cộng đồng dân cư. Công tác phổ biến, giới thiệu di sản trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nền tảng kỹ thuật số, mạng xã hội đã đóng vai trò quan trọng trong việc lan tỏa nhận thức, thu hút sự tham gia của giới trẻ và các tầng lớp nhân dân.
Đặc biệt, Bộ VHTTDL đã chủ động phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ, ngành liên quan xây dựng, triển khai Chương trình phối hợp số 01/CTPH-BVHTTDL-BGDĐT ngày 25-3-2021 về “Tổ chức các hoạt động giáo dục thông qua di sản văn hóa trong các cơ sở giáo dục giai đoạn 2021-2025”. Chương trình nhằm lồng ghép hiệu quả giáo dục di sản vào các hoạt động dạy - học trong nhà trường, thông qua hình thức học tập tại bảo tàng, di tích, làng nghề truyền thống; góp phần giáo dục lịch sử, bản sắc dân tộc và phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Những nỗ lực trên không chỉ nâng cao nhận thức cộng đồng mà còn góp phần tạo nền tảng bền vững để di sản văn hóa “sống” trong hiện tại và được truyền tiếp cho tương lai.
Hợp tác quốc tế và quảng bá hình ảnh đất nước thông qua di sản
Trên lĩnh vực quốc tế, Việt Nam đã từng bước ký kết, tham gia và trở thành thành viên chính thức của 4/6 Công ước và 1 Chương trình về di sản văn hóa của UNESCO. Uy tín và kinh nghiệm của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế công nhận, thông qua việc tín nhiệm bầu chọn nhiều vị trí quan trọng trong cơ chế hợp tác UNESCO như thành viên Ủy ban Di sản Thế giới nhiệm kỳ 2013-2017, 2023-2027; Ủy ban liên Chính phủ, Đại hội đồng Công ước UNESCO 2005; thành viên Ban tư vấn Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO 2003; Ủy viên Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2015-2019, 2021-2025, Phó Chủ tịch Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương...
2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
Bài học kinh nghiệm
Thực tiễn công tác quản lý di sản văn hóa trong những thập niên qua đã cho thấy nhiều bài học quý báu, mang tính chiến lược đối với việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện trong thời gian tới:
Sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước và cộng đồng là yếu tố quyết định trong bảo tồn lâu dài. Khi cộng đồng được trao quyền và có vai trò chủ thể, di sản mới thực sự “sống”, gắn bó với bản sắc và nhu cầu phát triển của người dân. Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát là một trong những nguyên tắc quản lý hiệu quả trong giai đoạn mới. Kinh nghiệm cho thấy, nơi nào chính quyền địa phương nhận thức đúng đắn, có năng lực triển khai và được hỗ trợ chuyên môn đầy đủ thì nơi đó công tác bảo vệ di sản đạt hiệu quả rõ rệt và bền vững hơn.
Phối hợp liên ngành - liên cấp là yêu cầu tất yếu. Di sản không chỉ là lĩnh vực của ngành Văn hóa mà còn liên quan mật thiết đến quy hoạch, xây dựng, tài nguyên môi trường, du lịch, giáo dục, công nghệ... Việc gắn kết chặt chẽ giữa các cấp, các ngành góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tổng thể.
Tránh thương mại hóa, hình thức hóa trong phát huy di sản. Bài học từ hiện tượng “lễ hội hóa”, “du lịch hóa” di sản phi vật thể cho thấy cần giữ gìn chiều sâu giá trị văn hóa, tránh chạy theo thị hiếu nhất thời, gây phản cảm hoặc làm giảm tính linh thiêng, nguyên bản của di sản.
Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn quản lý di sản văn hóa
Bên cạnh những kết quả tích cực, công tác quản lý di sản văn hóa ở nước ta vẫn còn tồn tại không ít vấn đề, thách thức cần được nhận diện rõ để có giải pháp phù hợp trong giai đoạn tới:
Công tác truyền thông, quảng bá và phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch tại một số địa phương còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu, chưa phản ánh được bản sắc đặc trưng của từng khu di sản. Thậm chí, có nơi để xảy ra tình trạng “thương mại hóa”, “lễ hội hóa” di sản làm sai lệch giá trị văn hóa nguyên bản, ảnh hưởng đến thương hiệu di sản quốc gia và quốc tế.
Việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại. Các hệ thống thông tin phân tán, thiếu kết nối liên ngành, liên cấp; dữ liệu không đồng bộ, gây khó khăn trong tra cứu, thống kê, đánh giá tổng thể.
Nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản còn hạn chế, hiệu quả đầu tư chưa tương xứng. Việc thu hút nguồn xã hội hóa, đầu tư công tư chưa thực sự được quan tâm đúng mức, còn thiếu các cơ chế khuyến khích cụ thể, minh bạch và khả thi.
Hạ tầng kỹ thuật và cơ sở vật chất phục vụ trưng bày, lưu giữ tại nhiều bảo tàng cấp tỉnh còn yếu kém. Nhiều đơn vị sử dụng trụ sở cũ, không đạt tiêu chuẩn chuyên môn; chưa có không gian phù hợp cho hoạt động trưng bày hiện đại, giáo dục trải nghiệm hay tiếp cận di sản số.
Nhận thức xã hội về giá trị di sản văn hóa chưa thật sự đồng đều, sâu sắc. Một bộ phận chính quyền địa phương, cán bộ quản lý và người dân chưa ý thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại, dẫn đến các hành vi ứng xử chưa phù hợp với di sản, kể cả trong quy hoạch, xây dựng và phát triển kinh tế.
Việc chấp hành pháp luật về di sản văn hóa ở một số địa phương còn chưa nghiêm, chưa quan tâm đúng mức tới công tác kiểm kê, lập hồ sơ, phân loại và đánh giá di sản, dẫn đến tình trạng xuống cấp, mất mát hoặc biến dạng di sản.
Các bất cập nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Tư duy phát triển chưa thực sự coi trọng yếu tố văn hóa, di sản. Việc lồng ghép mục tiêu bảo tồn vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội tại nhiều địa phương còn hình thức, thiếu chiều sâu. Tình trạng “phát triển nóng” mà không tính đến sức chịu tải văn hóa - môi trường đã dẫn đến xung đột giữa bảo tồn và khai thác.
Cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa rõ ràng và hiệu quả chưa cao. Việc phân cấp, phân quyền quản lý di sản mặc dù đã có chuyển biến tích cực, song vẫn thiếu đi sự giám sát chuyên môn và kiểm tra thường xuyên từ cấp trung ương, khiến một số địa phương thực hiện chưa đúng quy trình, thậm chí dẫn tới sai phạm.
Năng lực đội ngũ cán bộ quản lý di sản còn bất cập. Một bộ phận cán bộ văn hóa ở cơ sở chưa được đào tạo chuyên sâu, thiếu kỹ năng ứng dụng công nghệ, quản lý dự án hay vận động cộng đồng tham gia bảo tồn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực chưa được quan tâm thường xuyên, thiếu tính hệ thống và dự báo dài hạn.
Cơ chế chính sách về đầu tư, xã hội hóa và thu hút nguồn lực cho bảo tồn di sản còn thiếu đồng bộ. Nhiều văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn chi tiết hoặc chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực di sản, khiến việc huy động vốn từ doanh nghiệp, cộng đồng gặp khó khăn, chưa tạo được động lực đủ mạnh để xã hội hóa bảo tồn.
3. Định hướng và giải pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa trong kỷ nguyên mới
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, thay vì coi di sản như đối tượng cần gìn giữ tách biệt, cần xem đây là một nguồn lực phát triển, một phần trong hệ sinh thái kinh tế, xã hội, có khả năng đóng góp trực tiếp cho công nghiệp văn hóa, du lịch xanh, giáo dục sáng tạo và xây dựng thương hiệu địa phương.
Việc xây dựng hệ sinh thái di sản thông minh trên nền tảng công nghệ số là xu hướng tất yếu, phù hợp với định hướng của Chính phủ về chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết số 175/NQ-CP ngày 30-10-2021 về chuyển đổi số ngành Văn hóa. Tập trung xây dựng nền tảng dữ liệu mở, tích hợp cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ GIS, blockchain trong giám sát, quản lý di tích, theo dõi tình trạng bảo tồn, kết nối dữ liệu liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng. Đồng thời, phải chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu, am hiểu công nghệ, có khả năng thích ứng với môi trường số và đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại trong bảo tồn.
Một định hướng quan trọng khác là phát huy vai trò của cộng đồng - những chủ thể thực sự của di sản. Cần thúc đẩy các cơ chế để người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, người trẻ, các dòng họ, cộng đồng làng nghề, nhóm nghệ nhân truyền thống… có quyền tiếp cận, tham gia, giám sát và đồng sáng tạo trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Cùng với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực di sản, nhưng phải đặt trong khung pháp lý rõ ràng, minh bạch. Việc huy động doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và cá nhân tham gia bảo tồn, đầu tư phát triển di sản cần được gắn liền với cơ chế công khai dữ liệu, giám sát cộng đồng, công bố thông tin tài chính, kỹ thuật, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Đặc biệt, cần bổ sung quy định bắt buộc công khai dữ liệu quản lý, tu bổ, đầu tư di sản trên cổng thông tin điện tử của địa phương và cơ quan chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, giám sát xã hội.
Hợp tác quốc tế là một động lực quan trọng để nâng cao năng lực bảo tồn di sản. Việc chủ động xây dựng và trình hồ sơ di sản lên UNESCO, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong bảo tồn số, bảo vệ tri thức truyền thống, tài sản văn hóa phi vật thể khỏi nguy cơ chiếm đoạt xuyên biên giới là những ưu tiên cần tiếp tục được thúc đẩy. Đồng thời, cần xây dựng chính sách đặc thù cho các vùng dân tộc thiểu số, khu vực miền núi, hải đảo - nơi nhiều di sản đang đứng trước nguy cơ mai một - thông qua việc ưu tiên đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cán bộ tại chỗ, và có chính sách về “di sản số”, “di sản sở hữu cộng đồng” phù hợp với tinh thần của Luật Di sản văn hóa 2024 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022.
Tất cả các định hướng nêu trên cần được triển khai trong một hệ thống thể chế pháp lý đồng bộ, có sự điều tiết hợp lý giữa phân cấp - phân quyền với tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát. Sự gắn kết giữa ba trụ cột: pháp luật - khoa học - cộng đồng chính là nền tảng để công tác quản lý di sản văn hóa chuyển sang một giai đoạn mới: chủ động hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn.
Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, di sản văn hóa không chỉ là “gốc rễ” để giữ cho bản sắc không mai một mà còn là “cánh tay nối dài” giúp Việt Nam hội nhập quốc tế một cách tự tin, bản lĩnh và có bản sắc riêng. Việc đầu tư cho di sản văn hóa chính là đầu tư cho tương lai - một tương lai phát triển hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và tinh thần thời đại, hướng tới sự bền vững, hội nhập và phát triển.
PGS, TS LÊ THỊ THU HIỀN
Cục trưởng Cục Di sản văn hóa
Nguồn: Tạp chí VHNT số 615, tháng 8-2025