Về xã Biện Sơn, tỉnh Bắc Ninh hỏi cô giáo Chắm thì hầu như ai cũng biết, vì cô là người có nhiều công lao bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhiều người gọi cô là “Chắm Thổ”, cô cũng lấy tên đó đặt cho nick facebook và zalo của mình.

Cô giáo Chu Thị Chắm dạy trẻ đọc thơ bằng tiếng Nùng
Gặp cô đang dẫn tốp học sinh xúng sính trang phục dân tộc Nùng trong Ngày chợ hội hát shoong hao của xã vào 14 tháng Giêng, sau phút giao đãi và một thoáng ngại ngùng, cô cho biết: mình là người dân tộc Nùng, sinh năm 1984 tại thôn Cầu Nhạc, xã Phong Vân, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang cũ, nay là thôn Cầu Nhạc, xã Biện Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thuộc vùng cao đặc biệt khó khăn, nơi ngút ngàn mây vần, gió núi, 6 tuổi cô đã theo cha vào rừng làm nương trồng ngô, đỗ... một năm sau mới về nhà. Vì vậy, đi học muộn mất một năm theo độ tuổi. Tuy gia cảnh khó khăn nhưng cô được gia đình tạo điều kiện theo học hết cấp I và cấp II tại xã. Đến năm 2000, cô thi đỗ vào Trường phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang. Sau khi tốt nghiệp THPT, không có tiền theo học đại học, cô đi làm thuê kiếm tiền trong hai năm 2004 – 2005. Nuôi ước mong quyết tâm để trở thành cô giáo mầm non, năm 2006, cô tham gia kỳ thi tuyển sinh khoa Giáo dục mầm non của Trường Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương 1, nay là trường Cao đẳng sư phạm Trung ương, đỗ vào CĐSP Mầm non Trung ương 1, khóa 2006-2009. Sau khi có được tấm bằng tốt nghiệp, với những gì lĩnh hội được ở trường, mong muốn lớn nhất của cô là được trở về để cống hiến cho quê hương, làm giáo viên trường Mầm non Phong Vân từ đó đến nay.

Cô Giáo Chu Thị Chắm dạy trẻ hát then, xóc chùm nhạc theo đàn then
Biện Sơn vốn có truyền thống hát dân ca dân tộc Nùng. Sau những ngày làm việc đồng áng, các ông các bà lại hẹn nhau tại nhà riêng, xưa chưa có điện thì dùng đèn pin hoặc đốt đưốc, giờ điều kiện kinh tế đã phát triển, các ông các bà biết tổ chức các cuộc hẹn, các cặp hát giao duyên đối đáp qua điện thoại, nội dung là hỏi thăm nhau về kinh tế gia đình, về cuộc sống, cứ thế đến tận đêm khuya.
Trăn trở về việc bảo tồn văn hóa dân tộc, cô Chắm tự đặt ra câu hỏi, trong những câu hát đó có gì mà làm cho các ông các bà say mê đến vậy? Và cô nhận thức đó chính là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Nùng “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là động lực, là mục tiêu để phát triển đất nước, văn hóa còn thì dân tộc còn”. Cô cũng nhận thấy giá trị cốt lõi của dân tộc mình đang được chính các ông các bà nắm giữ mà nếu lớp trẻ, không biết cách giữ gìn và khôi phục thì sẽ không còn. Cô còn chịu ảnh hưởng từ cha, người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2023, ông được vinh danh điển hình tiên tiến trong cộng đồng dân tộc. Cứ mỗi lần đi họp ở Ban, Phòng Dân tộc của tỉnh về là ông lại căn dặn các con cháu phải giữ gìn bản sắc từ tiếng nói đến các làn điệu dân ca.Đó cũng là động lực để cô thêm yêu văn hóa của dân tộc mình.

Cô giáo Chu Thị Chắm dạy trẻ quy trình làm xôi 3 màu
Từ khi nhận công tác tại trường, phần lớn học sinh trong lớp cô là con em dân tộc thiểu số, (đồng bào người Nùng, chiếm 70% dân số) nhưng đa số các em không biết nghe, không biết nói, thậm chí có một số phụ huynh trẻ cũng” bất khả tri: tiếng dân tộc Nùng. Thế là cô bản thân luôn nghĩ phải làm một cái gì đó để góp phần củng cố, gìn giữ tiếng nói mẹ đẻ. Về chuyên môn,bậc giáo dục mầm non chưa có văn bản hướng dẫn dạy lồng ghép song ngữ, chưa có mục tiêu, tiền lệ nào cụ thể để tuyên truyền có hiệu quả tới phụ huynh. Song cô nghĩ là làm, bởi học sinh lớp mầm non học và ăn nghỉ tại trường. Cô thường xuyên nói tiếng Nùng với trẻ, ngày nào cũng như ngày nào, đến hết năm học, trẻ cũng biết giao tiếp một số câu cơ bản. Tuy nhiên, cô cũng gặp những khó khăn, một số phụ huynh mang tư tưởng “Không biết tiếng phổ thông mới sợ, chứ tiếng dân tộc không biết thì chả làm sao”. Vậy là cô đề nghị cho họp phụ huynh để làm công tác tuyên truyền những nghị quyết Trung ương về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam gắn với việc phát triển bền vững của đất nước”… Mưa dầm thấm lâu, Cô chuyển hóa được nhận thức của chính các phụ huynh. Cánh diều bảo tồn văn hóa dân tộc của cô gặp được thêm luồng gió mới từ năm học 2021-2022, Sở Giáo dục có văn bản về việc “Tăng cường giáo dục song ngữ cho trẻ mầm non và tiểu học trên cơ sở tiếng mẹ đẻ” Cô được nhà trường cử tham gia các lớp tập huấn do ngành Giáo dục tổ chức, được nhà trường phân công phụ trách lớp có nhiều con em dân tộc, lấy đó làm mục tiêu đặt ra cho kế hoạch giáo dục. Cô tăng cường tuyên truyền tới các bậc phụ huynh trên các nền tảng facebook, zalo, họp phụ huynh để thống nhất cách dạy trẻ, được phụ huynh và cộng đồng hưởng ứng. Từ đó, các bậc phụ huynh tự nguyện mang những phụ kiện, trang phục như mũ, áo, yếm, vải thêu của dân tộc tới tặng lớp để trang trí góc văn hóa dân tộc. Trẻ đến lớp chào cô, chào bố mẹ, chào bạn, mời cô, các bạn ăn cơm... bằng tiếng dân tộc Nùng. Các hoạt động tại lớp được lên kế hoạch rõ ràng và tích hợp một cách nhẹ nhàng. Cô còn phối hợp với phụ huynh dịch một số bài thơ, bài hát bằng tiếng Nùng để dạy trên lớp và học khi ở nhà. Kết quả, cuối năm học 2024 và 2025 học sinh của cô đã biết nói, biết nghe và giao tiếp bằng tiếng Nùng. Hiện, cô tham gia và giữ chức Phó Chủ nhiệm CLB hát dân ca Nùng của xã, thường xuyên giao lưu và đưa các cháu tham gia Ngày hội văn hóa các dân tộc,các hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng giành nhiều giải thưởng, được nhà trường và các phụ huynh tin tưởng. Đặc biệt, trong kỳ thi Giáo viên dạy giỏi 2023 – 2025 cô mạnh dạn đưa sáng kiến: “Bảo tồn văn hóa dân tộc Nùng trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại lớp 4TB3” được đánh giá cao.
Với những thành tích và kết quả dạy học song ngữ bảo tồn văn hóa dân tộc, cô được nhiều khen thưởng của các cấp các ngành. Năm 2024, cô được Chủ tịch UBND huyện tặng giấy khen: “Diễn viên quần chúng có nhiều thành tích xuất sắc”. Các chu kỳ từ 2014 - 2016; 2016 - 1018; 2021- 2023; 2023 - 2025, cô đều đạt “Danh hiệu Giáo viên dạy giỏi cấp huyện”. Đầu năm học 2025, được Giám đốc Sở Giáo dục tặng Giấy khen: “Có thành tích xuất sắc trong việc thực hiện Kế hoạch giai đoạn 2 thực hiện Đề án: “Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020 định hướng năm 2025” trên cơ sở tiếng mẹ đẻ của trẻ. Năm 2025 được Sở Dân tộc và Tôn giáo bình chọn “Vinh danh điển hình tiên tiến năm 2025”.
Hiện, cô vẫn là giáo viên mầm non, được phân công phụ trách lớp song ngữ, tiếng dân tộc của nhà trường. Trong công tác dạy học và tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa dân tộc gắn với giáo dục đã có nhiều thuận lợi, Đến nay, cô giáo, phụ huynh và cộng đồng đều giao tiếp và sử dụng thành thạo tiếng dân tộc. Phụ huynh ủng hộ, học sinh thì hăng say học tiếng, được ban giám hiệu và đồng nghiệp quan tâm giúp đỡ. Bên cạnh đó, cô còn vận động các phụ huynh may trang phục dân tộc cho các cháu khi đến trường, khi về gia đình cũng giao tiếp và nói tiếng dân tộc để củng cố vốn từ vựng, dạy thêm các làn điệu hát dân ca Nùng, hát then… Những ngày lễ, Tết, cô tổ chức cho học sinh làm các món ẩm thực như, gói bánh chưng, bánh vắt vai, sôi ba màu…là những món ẩm thực cổ truyền. Vừa làm công tác giáo dục của nhà trường lại say mê công việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa nên cô có ý thức sưu tầm, gặp gỡ các cụ già, các ông, bà, cô chú để ghi chép lại những bài dân ca, học hỏi lối hát ví von trong hát giao duyên... Tuy mất nhiều thời gian nhưng may mắn cô được gia đình, chồng con hiểu và ủng hộ nên cô cũng phấn khích hơn để thực hiện những công việc mình yêu thích, có lợi cho bản thân và cộng đồng. Ngoài thành quả và niềm vui đó, trong cô còn những băn khoăn: dẫu các chế độ của nhà nước về chính sách dân tộc được triển khai nhưng vẫn có nhiều khó khăn cần tháo gỡ: chưa có lớp tập huấn chuyên sâu cho giáo viên, chưa có kinh phí để làm phong trào, tổ chức các hội thi về nói, hát tiếng dân tộc giữa các khu, các lớp, các phụ huynh với nhau; chưa có nguồn kinh phí để mua sắm các đạo cụ để phát triển dân ca Nùng như hát then, tính tẩu, vải chàm may trang phục truyền thống, chưa có kinh phí để khuyến khích các nghệ nhân truyền dạy hát shoong hao, shi, cổ lẩu... Đặt biệt là lối hát giao duyên đối đáp shoong hao, một hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc của dân tộc Nùng mà hiện chỉ còn lớp người cao tuối mới biết cách hát.
Từ những gì bản thân đã cố gắng phấn đấu đạt được, trong năm học này, cô Chắm tiếp tục phát huy thế mạnh của bản thân, đặt ra mục tiêu cao hơn nữa, lan tỏa tới các lớp khác trong nhà trường. Cô sự định sẽ mở thêm 2 lớp dạy tiếng dân tộc Nùng cho trẻ từ 6 đến 14 tuổi. Và điều trăn trở, thôi thúc trong cô là mong muốn các ban ngành chức năng quan tâm để thành lập được “Hội bảo tồn văn hóa dân tộc Nùng” như tỉnh Lạng Sơn đã làm và hát dân ca dân tộc Nùng sóm trở thành di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia...
Bài và ảnh: BÁ ĐẠT
Nguồn: Tạp chí VHNT số 619, tháng 9-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
