Nhìn lại phim truyện điện ảnh Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

 

1. Xin được bắt đầu từ khái niệm và thực tiễn lịch sử

Trong Đại từ điển tiếng Việt (1999) giải nghĩa: “vận động bao hàm chuyển động, biến đổi và phát triển của vật chất” (1). Còn theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, thuật ngữ này chỉ về “một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật, hiện tượng”... “từ đơn giản đến phức tạp”... mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình” (2).

Nhiều nghiên cứu từ triết học, xã hội học; từ cá nhân con người, từ khoa học, kỹ thuật đến văn hóa, nghệ thuật đều xác quyết chung một quan điểm mang tính quy luật: Nếu không có vận động và phát triển thì hầu hết mọi đối tượng, sự vật, lĩnh vực trong đó có văn hóa nghệ thuật sẽ trở nên lạc hậu, mất đi sức sống và không còn khả năng phản ánh được hiện thực mới của xã hội, thậm chí nếu tụt hậu về khoa học công nghệ sẽ bị bỏ lại phía sau không thể đáp ứng và đuổi kịp nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại.

Như thế, có nghĩa sự “vận động” thường gắn liền với biến đổi và cơ hội phát triển. Tóm lại, có thể hiểu nôm na: Không vận động, không thay đổi thì đừng hy vọng phát triển!

Lịch sử hình thành điện ảnh thế giới khởi nguồn từ nước Pháp vào năm 1895 và “vận động” đến với Việt Nam nước ta là sớm nhất. Cụ thể, chỉ một năm sau khi anh em nhà Lumière ra mắt buổi chiếu phim đầu tiên tại Pari, điện ảnh  - một trong những loại hình nghệ thuật “ngoại nhập” theo người Pháp đã đến Hà Nội, chính thức du nhập vào Việt Nam từ cuối TK XIX đầu TK XX. Và... cũng vào năm 1923, cách đây hơn một trăm năm, bộ phim truyện đầu tiên do ê kíp người Việt Nam thực hiện sản xuất được hoàn thành có tên là Kim Vân Kiều.

Ngay trong những ngày khói lửa chiến tranh ác liệt chống thực dân Pháp vào năm 1947,  những thế hệ nghệ sĩ, chiến sĩ khu 8 - Bưng biền Nam Bộ thuộc thế hệ ban đầu với niềm say mê vô hạn, đã tự mày mò, tự học quay phim, in tráng phim, làm  nên những thước phim điện ảnh tư liệu sống động đầu tiên về những trận chống càn tiêu diệt ngoại xâm  trên chiến trường. Từ năm 1953, lịch sử thăng trầm của dân tộc ta đã trao súng cùng máy quay phim, máy chiếu phim cho điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Và rồi suốt chặng đường chiến dịch và chiến thắng điện Biên Phủ nối tiếp những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, diện mạo điện ảnh Việt Nam gồm cả phim tài liệu chiến tranh nóng bỏng từ chiến trường khói lửa đạn bom ác liệt được đánh đổi bằng máu và sự hy sinh quên mình của biết bao thế hệ những nghệ sĩ, chiến sĩ điện ảnh chiến trường và có bộ phim truyện điện ảnh đầu tiên Chung một dòng sông do Nguyễn Hồng Nghi - Phạm Văn Khoa đồng đạo diễn được sản xuất vào năm 1959. Tiếp theo là sự ra đời hàng loạt các bộ phim truyện về đề tài chiến tranh cách mạng mà trong số đó có nhiều tác phẩm điện ảnh đạt giá trị kinh điển trong lịch sử điện ảnh Việt Nam: Lửa trung tuyến (1961, đạo diễn Phạm Văn Khoa - Lê Minh Hiền), Con chim Vành khuyên (1962, đạo diễn Nguyễn Văn Thông - Trần Vũ), Chị Tư Hậu (1962, đạo diễn Phạm Kỳ Nam), Hai người lính (1962, đạo diễn Vũ Sơn), Kim Đồng (1964, đạo diễn Nông Ích Đạt - Vũ Phạm Từ), Người chiến sĩ trẻ (1964, đạo diễn NSND Hải Ninh), Lá cờ chuẩn (1965, đạo diễn U-đa (người Nga) & NSND Nguyễn Khắc Lợi), Nổi gió (1966, đạo diễn NSND Huy Thành), Cô giáo Hạnh (1966, đạo diễn NSƯT Vũ Phạm Từ - NSND Phạm Kỳ Nam), Nguyễn Văn Trỗi (1966, đạo diễn NSND Bùi Đình Hạc - Lý Thái Bảo), Rừng O Thắm (1967, đạo diễn NSND Hải Ninh), Đường về quê mẹ (1970, đạo diễn NSND Bùi Đình Hạc), Không nơi ẩn nấp (1971, đạo diễn NSND Phạm Kỳ Nam), Vĩ tuyến 17 Ngày và Đêm (1972, đạo diễn NSND Hải Ninh), Bài ca ra trận (1973, đạo diễn NDND Trần Đắc), Em bé Hà Nội (1974, đạo diễn NSND Hải Ninh)... được chiếu cùng những thước phim tư liệu quý báu về Bác Hồ, về hậu phương lớn miền Bắc xây dựng và chiến đấu, về tuyến lửa miền Nam như: Chiến thắng Bình Giã, Vài hình ảnh về Ba Tri (cùng trong năm 1964), Ðồng Xoài rực lửa, Mỹ nhất định thua-ta nhất định thắng, Chiến thắng Dương Liễu-Ðèo Nhông, Miền Nam anh dũng, Khúc ruột miền Trung (cùng trong năm 1965), Du kích Củ Chi, Bình Thuận triệt phá giao thông địch, Ðịch lấn chiếm Phước Hòa (cùng trong năm 1966), Chiến thắng Tây Ninh, Hạt lúa vành đai (cùng trong năm 1967), Ðại hội thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Ðội nữ pháo binh, Ðường ra phía trước, Trả tù binh Mỹ lần đầu tiên ở Việt Nam Ðại hội những người chiến thắng (cùng trong năm 1969)... đã thiết thực khích lệ động viên tinh thần đồng bào chiến sĩ cả nước. Theo chiến dịch Hồ Chí Minh làm nên  đại thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, đã có biết bao văn nghệ sĩ, chiến sĩ ngành Điện ảnh từ sản xuất đến phổ biến phim được biên chế thành những người lính xung kích bám sát các đoàn quân, cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn và đã cho ra đời nhiều bộ phim tài liệu có giá trị như: Thành phố lúc rạng đông, Đường tới thành phố, Những bước chân thắng lợi, Sài Gòn tháng 5 năm 1975...

2. Năm mươi  năm vận động và phát triển của phim truyện điện ảnh Việt Nam kể từ sau ngày đất nước thống nhất

Nửa thế kỷ trôi qua, kể từ sau đại thắng mùa Xuân 1975 khi lần đầu tiên non sông Việt Nam thống nhất liền một dải cho đến nay. Luôn đồng hành cùng mọi thăng trầm của lịch sử dân tộc trên suốt một chặng đường từ tư duy bao cấp đến “đổi mới và hội nhập”,  điện ảnh Việt Nam luôn “vận động, biến đổi và phát triển” trong dòng chảy chung của văn hóa, nghệ thuật Việt Nam.

Kể từ khi đất nước hòa bình, văn nghệ sĩ điện ảnh hai miền Nam Bắc cùng bắt tay xây dựng nền điện ảnh thống nhất, với nhiều bộ phim mang nguồn sinh khí mới: Sao Tháng Tám (1976, đạo diễn Trần Đắc), Mối tình đầu (1977, đạo diễn Hải Ninh), Cánh đồng hoang (1979, đạo diễn Hồng Sến), Bao giờ cho đến Tháng Mười (1984, đạo diễn Đặng Nhật Minh), Ván bài lật ngửa (8 tập, 1982-1987, đạo diễn Lê Hoàng Hoa)... và rất nhiều bộ phim khác mà tác giả bài viết không thể nêu hết, thì điện ảnh Việt Nam vẫn “được biết đến” và nhắc đến “như một nền điện ảnh chiến tranh”.

Bước vào “thời kỳ đổi mới” được tính từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12-1986) và đây cũng được coi như “thời kỳ đổi mới” của điện ảnh Việt Nam với biết bao sự thay đổi lớn bằng sự khai thác mở rộng đề tài với mọi lĩnh vực đời sống, phong phú và đa dạng hơn. Từ tư duy kinh tế bao cấp, điện ảnh (từng được nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để làm phim theo kế hoạch hằng quý, hằng năm trước đây), chuyển sang thời kỳ điện ảnh Việt Nam buộc phải chuyển đổi để dần làm quen với kinh tế thị trường, đồng thời làm quen với việc “tự hạch toán” trong lĩnh vực sản xuất và phổ biến phát hành phim. Do thế, vào những thập niên 90 của thế kỷ trước, điện ảnh tư nhân tại nước ta đã manh nha xuất hiện. Do cơ chế lúc ấy chưa chính thức cho phép tư nhân tự làm phim, nên các chủ phim phải “mua mác” của các đơn vị nhà nước có pháp nhân. Vào thời điểm lúc bấy giờ, một bộ phim truyện video có kinh phí sản xuất khoảng trên dưới 200 triệu đồng, chỉ sau một tuần chiếu tại rạp công cộng đã có doanh thu chiếu bóng gấp nhiều lần số vốn bỏ ra. Riêng TP.HCM  (từng được mệnh danh là “Kinh đô điện ảnh”), với trên 30 điểm chiếu đã chiếm trên 60% tổng doanh thu chiếu bóng toàn quốc để trở thành thị trường điện ảnh đầy hấp dẫn với người đầu tư vốn làm phim. Ngoài một số bộ phim chất lượng tốt, có giá trị nội dung và nghệ thuật thể hiện, thực tế khi “người người làm phim; nhà nhà làm phim” phát triển tự phát, việc theo đuổi mục đích lợi nhuận, đã tạo ra nhiều bộ phim non yếu về nghệ thuật và bị chính giới làm nghề cũng như khán giả xem thường. Và... như thế, một giai đoạn phát triển phim video có tư nhân đầu tư vốn sản xuất phim phổ biến tại rạp chiếu bóng công cộng đã bị gán gọi là thời kỳ “phim mì ăn liền”.

Cũng vào cuối thập niên những năm 90, khi phim video bị đánh bật khỏi các rạp chiếu bóng công cộng bởi điều kiện thưởng thức của khán giả đã thay đổi cùng với chất lượng công nghệ khi băng đĩa hình chỉ có thể phục vụ đại chúng người xem tại từng hộ gia đình. Nhận thấy rõ, về chất lượng kỹ thuật của điện ảnh đích thực phải là phim nhựa và vai trò đặc biệt mang tính định hướng về đề tài, nội dung, thể loại, nhà nước đã khôi phục chính sách đầu tư sản xuất phim đồng thời ban hành quy định về điều kiện thành lập cơ sở sản xuất phim, cho phép các hãng phim tư nhân được ra đời một cách chính danh. Từ năm 2000 trở đi, số lượng phim do tư nhân đầu tư sản xuất tăng đáng kể và dần chiếm ưu thế trong hoạt động sản xuất phim. Theo thống kê từ nghiên cứu của Tiến sĩ Ngô Phương Lan, tác giả cuốn Phác thảo Điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập (2023): “do những khó khăn về thủ tục tài chính trong việc đặt hàng sản xuất phim, trong 3 năm từ 2016 đến 2018, toàn bộ 100% các phim ra rạp đều là phim tư nhân”. Và điều đáng chú ý, đa số các bộ phim tư nhân đều được thực hiện bởi các đơn vị sản xuất từ TP.HCM và chiếm đến trên 70 % thị phần phát hành phim tại đây và khu vực phía Nam (3).

Từ những bộ phim truyện điện ảnh Việt Nam đã được sản xuất và công chiếu trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ta có thể thấy diện mạo hiện nay của điện ảnh Việt Nam, bao gồm:

Phim về đề tài chiến tranh cách mạng do nhà nước đầu tư kinh phí sản xuất

Thống kê (sắp xếp theo trình tự thời gian hoàn thành) một số bộ phim tiêu biểu về đề tài chiến tranh cách mạng do nhà nước đầu tư vốn sản xuất, ta có thể thấy phần nào “sự vận động và phát triển” của điện ảnh phim truyện Việt Nam kể từ sau ngày đất nước thống nhất. Từ Vùng trời (1975, đạo diễn NSND Huy Thành), Cô Nhíp (1976, đạo diễn Khương Mễ), Phía Bắc Thủ đô (1977, đạo diễn NSND Huy Thành), Mối tình đầu (1977, đạo diễn NSND Hải Ninh), Mùa gió chướng (1978, đạo diễn NSND Nguyễn Hồng Sến), Cánh đồng hoang (1979, đạo diễn NSND Nguyễn Hồng Sến), Tự thú trước bình minh (1979, đạo diễn NSND Phạm Kỳ Nam), Bài ca không quên (1981, đạo diễn NSND Nguyễn Văn Thông), Ván bài lật ngửa (8 tập,1982, đạo diễn Khôi Nguyên - tức Lê Hoàng Hoa), Hòn đất (1983, đạo diễn NSND Nguyễn Hồng Sến), Tọa độ chết (Phim hợp tác Việt Nam - Liên Xô, 1985, đạo diễn Nguyễn Xuân Chân), Biệt động Sài Gòn (1986, đạo diễn Nguyễn Long Vân), Không có đường chân trời (1986, đạo diễn Nguyễn Khánh Dư), Thủ lĩnh áo nâu (Hoàng Hoa Thám), Lửa cháy đường chân trời (1987, đạo diễn NSND Trần Phương), Dòng sông hoa trắng (1989-1990, đạo diễn NSND Trần Phương), Anh chỉ có mình em (1992, đạo diễn Đới Xuân Việt), Hãy tha thứ cho em (1993, đạo diễn NSƯT Lưu Trọng Ninh), Cỏ Lau (1994, đạo diễn Vương Đức), Hoa Ban đỏ (1994, đạo diễn NSND Bạch Diệp), Lưỡi dao (1995, đạo diễn Lê Hoàng), Đất nước đứng lên (1995, đạo diễn NSƯT Lê Đức Tiến), Bông hoa rừng Sác (1995, đạo diễn NSND Trần Phương - Hoàng Tích Chỉ), Cây Bạch đàn vô danh (1996, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân), Ai xuôi vạn lý (1996, đạo diễn Lê Hoàng), Ngã ba Đồng Lộc (1997, đạo diễn NSƯT Lưu Trọng Ninh), Bến không chồng (2000, đạo diễn NSƯT Lưu Trọng Ninh), Đời cát (1999, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân), Mạt trận không tiếng súng (2000, đạo diễn NSƯT Lê Dân - Bùi Đình Thứ), Chiếc chìa khóa vàng (2001, đạo diễn Lê Hoàng), Người đàn bà mộng du (2001, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân), Hà Nội 12 ngày đêm (2002, đạo diễn NSND Bùi Đình Hạc), Ký ức điện Biên (2004, đạo diễn Đỗ Minh Tuấn), Tiếng cồng định mệnh (2004, đạo diễn NSND Nguyễn Khắc Lợi - Lê Thi), Giải phóng Sài Gòn (2005, đạo diễn Nguyễn Long Vân), Đường thư (2005, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng), Đừng đốt (2009, đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh), Mùi cỏ cháy (2012, đạo diễn NSƯT Nguyễn Hữu Mười), Những người viết huyền thoại (2013, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng), Nhà Tiên tri (2013, đạo diễn NSƯT Vương Đức), Thầu Chín ở Xiêm (2014, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng), Sống cùng lịch sử  (2014, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân), Truyền thuyết về Quán Tiên (2019, đạo diễn Đinh Tuấn Vũ), Bình minh đỏ (2021, đạo diễn NSND Nguyễn Thanh Vân), Đào, Phở và Piano (2023, đạo diễn NSUT Phi Tiến Sơn)... Riêng các phim Áo lụa Hà Đông (2006, đạo diễn Lưu Huỳnh), Địa đạo - Mặt trời trong lòng đất (2025, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên) về đề tài chiến tranh đều do tư nhân đầu tư vốn sản xuất và thành công về doanh thu với số lượt người xem đông đảo (4).

Ngoài ra, còn có rất nhiều bộ phim truyện video, phim truyện truyền hình nhiều tập về đề tài chiến tranh do các nghệ sĩ: đạo diễn NSƯT Trần Vịnh, đạo diễn Trần Cảnh Đôn (dàn dựng hàng trăm tập phim truyện truyền hình về đề tài chiến tranh), đạo diễn Châu Huế, đạo diễn Trần Ngọc Phong (Những nẻo đường phù sa), đạo diễn Bùi Đình Thứ (Những ngôi sao biển, Rặng Trâm Bầu)… và rất nhiều đạo diễn khác đã làm phim truyện về chiến tranh mà tác giả bài viết không có điều kiện thống kê hết.

 Phim khai thác đề tài xã hội, văn hóa truyền thống, về lãnh tụ cách mạng do nhà nước đặt hàng

Khảo sát danh mục phim truyện đã phát hành có: Xương Rồng đen (1993, đạo diễn Lê Dân), Bụi hồng (1993, đạo diễn Việt Kiều Hồ Quang Minh), Thương nhớ đồng quê (1995), Mùa ổi (2000) (đạo diễn Đặng Nhật Minh), Gái nhảy (2003, đạo diễn Lê Hoàng - tạo nên sự kiện nổi bật về doanh thu chiếu bóng cao kỷ lục vào thời điểm ấy), Thung lũng hoang vắng (2001), Tâm hồn mẹ (2011) (đạo diễn Phạm Nhuệ Giang), Mê Thảo thời vang bóng (2002, đạo diễn Việt Linh), Mùa len trâu (2004, Nguyễn Võ Nghiêm Minh), Thời xa vắng (2004, Hồ Quang Minh), Trăng nơi đáy giếng (2009, đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn), Nhìn ra biển cả (2013, đạo diễn Vũ Châu), Thầu Chín ở Xiêm (2015, đạo diễn Bùi Tuấn Vũ), Cuộc đời của Yến (2015, đạo diễn Đinh Tuấn Vũ), Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2015 - kết hợp thí điểm nguồn đầu tư vốn nhà nước và tư nhân của Victor Vũ), Cơn giông (2021, đạo diễn Trần Ngọc Phong), Hồng Hà nữ sĩ (2024, đạo diễn Nguyễn Đức Việt), Bà già đi bụi (2024, đạo diễn Trần Chí Thành)...

Phim truyện điện ảnh do tư nhân đầu tư sản xuất

Sự “vận động” biến chuyển của kinh tế thị trường đã cho ra đời hàng trăm đơn vị tư nhân tham gia sản xuất phim. Làn sóng xã hội hóa trong hoạt động điện ảnh bắt đầu trở nên mạnh mẽ từ đầu những năm 2000 tại Việt Nam. Trải qua một một thời kỳ “phim thảm họa” với những màn “hài nhảm”, phim truyện Việt Nam ngày càng tiến bộ với chất lượng không ngừng được cải thiện về nội dung và nghệ thuật thể hiện từ: đổi mới cốt truyện và cách kể chuyện hấp dẫn, cải tiến thủ pháp dàn dựng, gia tăng chất lượng kỹ thuật hình ảnh và âm thanh, âm nhạc... xây dựng được nhiều bộ phim có chất lượng cao, có tầm ảnh hưởng với truyền thông và mạng xã hội thu hút đông đảo khán giả. Và... dòng phim tư nhân chính thức lên ngôi: đạo diễn Vũ Ngọc Đãng với các phim Những cô gái chân dài (2004), Đẹp từng centimet (2009), Hotboy nổi loạn I (2011), Vòng eo 56 (2015), Hotboy nổi loạn II (2017), Khi con là nhà (2018), Con Nhót mót chồng (2023)...; đạo diễn Nguyễn Quang Dũng với Hồn Trương Ba da hàng thịt (2006), Nụ hôn thần chết (2008), Giải cứu thần chết (2009), Những nụ hôn rực rỡ (2010), Mỹ nhân kế (2013), Siêu nhân X (2015), Dạ cổ hoài lang (2017), Ước hẹn mùa thu (2019), Tiệc trăng máu (2020), Đất rừng phương Nam (2023)....Trấn Thành nổi đình nổi đám về doanh thu vài trăm tỷ đồng với Bố Già (2021), Nhà Bà Nữ (2023), Mai (2024); Lý Hải cũng tạo được thương hiệu hấp dẫn người xem với các phim Lật mặt 1, 2, 3, 4, 5, 6... đặc biệt là Lật mặt 7 - Một điều ước tạo được sự yêu thích và hưởng ứng của đông đảo người xem.

Các đạo diễn Việt kiều như: Victor Vũ với Oan hồn (2004), Chuyện tình xa xứ (2009), Scandal - Bí mật thảm đỏ, Thiên mệnh anh hùng (2012), Scadal - Hào quang trở lại (2014), Lôi báo (2017), Người bất tử (2018), Mắt biếc (2019), Người vợ cuối cùng (2023)...; đạo diễn Charlie Nguyễn với Dòng máu anh hùng (2007), Để mai tính I (2010), Khát vọng Thăng Long (2010 - cùng đồng đạo diễn với Lưu Trọng Ninh), Long ruồi (2011), Cưới ngay kẻo lỡ (2012), Để mai tính II (2014), Chàng vợ của em (2017), Tèo em (2023)...; đạo diễn Lưu Huỳnh với Em và Michel Jackson (1993), Áo lụa Hà Đông (2006), Huyền thoại bất tử (2009), Lấy chồng người ta (2012), Hiệp sĩ mù (2014), Tim hằn vết sẹo (2022)...; đạo diễn Dustin Nguyễn với Lửa Phật (2013), Trúng số (2015), Bao giờ có yêu nhau (2016)…; đạo diễn Phan Gia Nhật Linh với Em là bà nội của anh (2015), Cô gái đến từ hôm qua (2017), Trạng Tí phiêu lưu ký, Em và Trịnh (2022), Đất rừng phương Nam (2023)...; đạo diễn Hàm Trần với Âm mưu giày gót nhọn (2013), Đoạt hồn (2014), Siêu trộm (2016), Bạn gái tôi là sếp (2017), Song Lang (2018), Thất sơn tâm linh (2019), Maika: Cô gái từ hành tinh khác (2022)... ; Cũng cần nhắc tới sự đóng góp không nhỏ của một số đạo diễn người Mỹ gốc Việt như: cố đạo diễn Stefan Gauger với bộ phim thể nghiệm như Cú và chim se sẻ (2007), Sài Gòn Yo! (2011), Yêu đi đừng sợ (2017); Leon Quang Lê với Song Lang (2018)...; đạo diễn người Mỹ sống tại Việt Nam Aeron Toronto với Đêm tối rực rỡ (2021)...  Một số các đạo diễn trẻ khác như: Nguyễn Phan Quang Bình với Vũ khúc con cò (2002), Cánh đồng bất tận (2010); đạo diễn Lương Đình Dũng với Cha cõng con (2017); đạo diễn Phạm Thị Hồng Ánh với phim đầu tay Đảo của dân ngụ cư (2017); đạo diễn Lê Thanh Sơn với Bẫy rồng (2009), Em chưa 18 (2017), Móng vuốt (2024)...; đạo diễn Kay Nguyễn và Trần Bửu Lộc với Cô Ba Sài Gòn (2017); đạo diễn Lê Văn Kiệt với Hai Phượng (2019); cố đạo diễn trẻ Vũ Ngọc Phượng với 12 chòm sao - Vẽ đường cho hươu chạy (2019), Anh trai yêu quái (2019); đạo diễn Võ Thanh Hòa với Siêu lừa gặp siêu lầy...; đạo diễn Đoàn Nhất Trung với Cua lại vợ bầu...

Có thể thấy, điểm mạnh của đa số những bộ phim này là phong cách trẻ trung, theo sát thị hiếu khán giả và cải tiến nhiều hơn trong cách tạo hình, xử lý tốt hiệu quả âm thanh để lôi cuốn người xem - đặc biệt là khán giả trẻ. Trong số các bộ phim này có nhiều phim đoạt giải tại Liên hoan phim quốc gia, Giải thưởng Cánh Diều của Hội Điện ảnh Việt Nam. Bên cạnh nhiều phim lỗ, không thể thu hồi vốn, trong từng thời điểm khác nhau đã có nhiều bộ phim “ăn khách” đạt tỷ lệ chiếm ghế cao, tạo nên kỷ lục doanh thu lớn như Gái nhảy, Em chưa 18... Nhiều phim được xếp vào “Câu lạc bộ hàng vài trăm tỷ đồng” như: Gái già lắm chiêu, Chàng vợ của em, Hai Phương, Cua lại vợ bầu, Mắt biếc, Bố Già, Nhà Bà Nữ, Chị chị em em, Siêu lừa gặp Siêu lầy, Lật mặt 6... Em và Trịnh, Đất rừng phương Nam, Người vợ cuối cùng, Mai,  Lật mặt 7 - Một điều ước... Trong số đó có nhiều phim ngoài việc thắng lớn về doanh thu trong nước còn được tổ chức chiếu thương mại khá thành công về doanh thu tại: Hoa Kỳ, Malaysia, Singapore, Úc...

Phim độc lập (hay còn cách gọi khác là: “Phim tác giả”)

Theo một cách gọi khác, đây là dòng phim tác giả hướng tới các liên hoan phim quốc tế và các hạng mục giải thưởng của các liên hoan phim này. Các nhà làm phim độc lập đều cố gắng vận dụng để xin tài trợ từ các quỹ tài trợ, các nhà sản xuất, nhà phát hành phim nước ngoài. Các tên tuổi nổi bật có Phan Đăng Di cùng đạo diễn Bùi Thạc Chuyên làm Chơi vơi do Nhà nước đặt hàng sản xuất và công chiếu vào năm 2009. Sau đó, vào năm 2010, Phan Đăng Di thực hiện bộ phim đầu tay Bi, đừng sợ với vai trò đạo diễn. Tác phẩm này được đề cử Grand Prize tại Critics Week  Liên hoan phim Cannes 2010. Bộ phim Đập cánh giữa không trung (2014) là bộ phim độc lập của nữ đạo diễn Nguyễn Hoàng Điệp, đoạt giải fedeora Award cho phim hay nhất tại International Film Critics Week Liên hoan phim Venice 2014. Tác phẩm là sự tổng hòa chất lãng mạn, thơ mộng  và trần trụi, gây sốc với người xem; bộ phim Cha và con và... (2015) của Phan Đăng Di cũng được chon dự thi chính thức tại Liên hoan phim Berlin 2015 với cách thể hiện mới mẻ, mang đậm nét chất “thị hiếu phương Tây”; Ròm (2019) của đạo diễn Trần Thanh Huy đoạt giải Phim hay nhất tại Liên hoan Phim Busan 2019. Đây là tác phẩm được nâng lên từ bộ phim ngắn 16 giờ 30 - bài thi tốt nghiệp của tác giả và chính phim ngắn này từng được chọn vào chương trình “Góc phim ngắn” tại Liên hoan phim Cannes 2013; Memento Mori: Đất (2022) là phim đầu tay của biên kịch kiêm đạo diễn Mạnh Cường Vũ theo đuổi lối thể nghiệm riêng và giành được giải NETPAC hạng mục phim Việt Nam dự thi tại Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng 2023; Tro tàn rực rỡ (2023) của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên đoạt giải Khinh khí cầu vàng của Liên hoan phim Ba Châu lục tại Nantes (Pháp) và giải thưởng cho nữ diễn viên xuất sắc hạng mục phim châu Á dự thi tại Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng 2023.

Dễ nhận thấy, hình thành xu hướng làm phim với kinh phí khiêm tốn, khai thác tâm lý xã hội, phản ánh đa dạng tình người, những gai góc, u uất, góc khuất trong tâm hồn, những phản kháng thời cuộc...  đã làm nên những tên tuổi mới như: Phạm Thiên Ân với Bên trong vỏ kén vàng (2023); Phạm Ngọc Lân với Cu li không bao giờ khóc (Culi never cries) sản xuất 2024 thắng giải Phim đầu tay xuất sắc Liên hoan phim Berlin nằm trong hạng mục Panorama - trình chiếu những bộ phim đặc sắc mang phong cách độc đáo, giới thiệu những nhà làm phim trẻ tại liên hoan phim này; Hà Lệ Diễm với phim tài liệu Những đứa trẻ trong sương (2024) giành hàng chục giải tại các liên hoan phim quốc tế và xuất sắc là phim đầu tiên của Việt Nam lọt top 15 phim tài liệu tranh giải Oscar 2023 và giải phim hay nhất tại Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng 2024; Dương Diệu Linh với Mưa trên cánh bướm (2024) tham dự Liên hoan phim Venice 2024. Tại lễ trao giải Liên hoan phim Cannes lần thứ 75, phim hoạt hình ngắn Giấc mơ gỏi cuốn (Spring Roll Dream) của đạo diễn trẻ Mai Vũ (sinh năm 1992) đã giành giải Lights on Women - hạng mục được thành lập từ năm 1998, khuyến khích các nữ đạo diễn theo đuổi khát vọng sáng tạo của mình. Bộ phim cũng lọt vào top 16 phim tranh giải La Cinéf - hạng mục phát hiện các tài năng mới đến từ các trường điện ảnh trên thế giới; phim Vị (Taste) của đạo diễn Lê Bảo đoạt giải đặc biệt của ban giám khảo Liên hoan phim Berlin lần thứ 71. Bộ phim truyện đầu tay này từng nhận giải Dự án triển vọng nhất trong Lễ trao giải Màn Bạc (Silver Screen Awards) tại Singapore...

3. Một vài đề xuất tháo gỡ điểm nghẽn

Năm 2020 có 566 cơ sở sản xuất phim trên cả nước và hơn 1100 rạp chiếu bóng với hơn 6000 phòng chiếu, nhưng rạp do nhà nước quản lý chỉ gần 20%, hơn 80% còn lại thuộc sở hữu tư nhân và pháp nhân nước ngoài. Tỷ lệ phim Việt Nam là 30% trên tổng số buổi chiếu với doanh thu phòng vé 150 triệu USD (bằng 3700 tỷ đồng) tương đương 90% doanh thu trước đại dịch COVID-19. Năm 2023, TP.HCM đứng đầu với 800 doanh nghiệp điện ảnh, trong đó đạt doanh thu phòng vé đứng thứ hai toàn Đông Nam Á, chiếm 40% thị phần doanh thu chiếu bóng cả nước. Tuy nhiên, trên thực tế điện ảnh Việt Nam vẫn chưa nhập được vào chuỗi cung ứng giá trị điện ảnh toàn cầu. Để điện ảnh trở thành mũi nhọn của công nghiệp văn hóa, rất cần Nhà nước quan tâm tháo gỡ  một số “điểm nghẽn, nút thắt” trong cơ chế chính sách hiện nay (5).

Từ thực tế trên, xin đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy công nghiệp văn hóa trong đó để điện ảnh Việt Nam tiếp tục phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay (6), cụ thể là:

Thứ nhất, nên sớm cho áp dụng hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công - tư trong khâu sản xuất và phổ biến phát hành phim để kịp thời bổ sung nguồn lực cho điện ảnh; đồng thời cho phép các cơ sở sản xuất được quyền phát hành, phổ biến tác phẩm làm ra để kịp thời đưa phim đến khán giả và cải tiến nguồn thu cho cả Nhà nước và các đơn vị trực tiếp làm ra sản phẩm.

Thứ hai, đầu tư trọng điểm cho các mục tiêu trong Chiến lược và Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2030 và tầm nhìn xa hơn cần xây mới các trung tâm chiếu phim hiện đại ở cả ba miền, hệ thống nhà văn hóa - điện ảnh và tăng cường công tác chiếu bóng lưu động ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa.

Thứ ba, phát triển du lịch gắn với điện ảnh; trong đó chú trọng tạo dựng các trường quay, bối cảnh quay phim thành các điểm du lịch kết hợp với các khu sinh thái điện ảnh.

Thứ , để phim sử dụng ngân sách có sức thu hút khán giả của rạp chiếu thương mại (hiện tới 80 - 90% là người trẻ), cần chú trọng đầu tư khâu quảng cáo, tiếp thị sản phẩm.

Thứ năm, tăng cường phổ cập kiến thức điện ảnh vào nhà trường, đẩy mạnh xã hội hóa công tác đào tạo điện ảnh để góp phần “ươm mầm tài năng” và dần hình thành nên những thế hệ khán giả mới có kiến thức và thói quen thụ hưởng nghệ thuật, phim ảnh đúng đắn.

Thứ sáu, tạo cho Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh quốc gia nguồn chi thường xuyên để hỗ trợ các tài năng điện ảnh, các dự án làm phim có triển vọng làm nên những phẩm lớn có thể đại diện xứng đáng cho điện ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.

________________________

1. Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, 1999, tr.1802.

2. vi.wikipedia.org

3. Ngô Phương Lan, Phác thảo Điện ảnh Việt Nam thời đổi mới và hội nhập, Nxb Hội nhà văn, 2023.

4. Đỗ Lệnh Hùng Tú, Khai thác và phổ biến phim truyện Việt Nam về đề tài chiến tranh, góp phần phát triển công nghiệp điện ảnh Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, Tham luận tại Hội thảo Di sản phim truyện chiến tranh của Điện ảnh Việt Nam: Giá trị nghệ thuật, lưu trữ, khai thác phổ biến phim trong cuộc Cách mạng 4.0 do Viện phim Việt Nam tổ chức tháng 3-2024.

5. Nguyễn Thị Thu Hà, Khơi thông nguồn lực xã hội phát triển Điện ảnh, 2024.

6. Đỗ Lệnh Hùng Tú, “Những nút thắt, điểm nghẽn” cần tháo gỡ để điện ảnh phát triển, Tạp chí Thế giới Điện ảnh, số 2-2025, tr.6-8.

________________________

Tham luận tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6-2025.

 

ĐỖ LỆNH HÙNG TÚ

PGS, TS, Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam

;