Nhà thơ Mã Thế Vinh với hành trình 50 năm văn học Lạng Sơn (1975 - 2025)

Nói đến văn học Lạng Sơn nói riêng, văn học các dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam nói chung từ những năm 60 của thế kỷ XX tới nay - không thể không nhắc tới nhà thơ, một nhà nghiên cứu, sưu tm, một nhà văn hóa dân tộc Nùng - Mã Thế Vinh.

Tôi rất may mắn được quen biết và được làm việc với ông trong quá trình tổ chức xuất bản cuốn sách Tuyển tập Mã Thế Vinh (song ngữ Tày Nùng - Việt) năm 2013. Với sự yêu quí, trân trọng và nể phục đối với một nhà thơ Nùng Xứ Lạng - tôi đã cố gắng cùng ông và gia đình ông hoàn thành cuốn sách: Tuyển tập Mã Thế Vinh khá dày dặn và công phu (trên 1000 trang sách), bao gồm những tác phẩm tiêu biểu của ông bằng 2 thứ ngôn ngữ Tày, Nùng - Việt. Đây chưa phải là toàn bộ những sáng tác, những nghiên cứu của ông mà chỉ là những tác phẩm tiêu biểu được lựa chọn để đưa vào Tuyển tập. Nếu có thể in lại toàn bộ “di sản” của ông để lại, chắc chắn chúng ta sẽ có một bộ sách đồ sộ hơn nữa - khoảng trên 2000 trang sách.

Là một tác giả người DTTS, cả cuộc đời và sự nghiệp gắn bó máu thịt và cống hiến trọn đời cho quê hương Xứ Lạng, nhà thơ Mã Thế Vinh thực sự xứng đáng được tôn vinh, trân trọng như là một biểu tượng văn hóa, văn học của tỉnh Lạng Sơn suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Trước năm 1975, thơ của tác giả Mã Thế Vinh đã từng xuất hiện trong đời sống văn học Việt Nam với 2 bài thơ mang đậm chất dân tộc và miền núi: Hiến pháp ban hành như mùa Xuân (1960) và Vẽ bản đồ quê tôi (1961). Ông cũng chính là một trong số ít các thành viên sáng lập ra Hội Văn nghệ Việt Bắc. Và từ đó, những bài thơ song ngữ của ông đã xuất hiện nhiều hơn trên các trang Báo Văn nghệ Việt Bắc. Nhưng phải tới những năm sau 1975 - khi đất nước hoàn thành giải phóng, văn nghệ Việt Nam nói chung, văn nghệ các DTTS cũng như văn nghệ Lạng Sơn nói riêng có những cơ hội, có điều kiện vận động và phát triển mới, nhà thơ Mã Thế Vinh đã thực sự tạo nên những dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp văn chương nghệ thuật của mình. Năm 1981, ông đã cho ra đời tập thơ Vẽ bản đồ quê tôi (thơ song ngữ), năm 1995 xut bn tp thơ Lằm tàng chài pây (Con đường anh đi), năm 1997 tiếp tc ra đời tp sách Nhắn bạn của Hoàng Văn Thụ. Ông đã được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1983 (là nhà văn đầu tiên của tỉnh Lạng Sơn vào Hội Nhà văn Việt Nam, sau ông là nhà văn Vy Thị Kim Bình - kết nạp năm 1988, nhà văn Nguyễn Trường Thanh - kết nạp năm 1995)…

Đặc bit t sau năm 2000, dù tui tác đã khá cao, nhưng nhà thơ Mã Thế Vinh vn tiếp tc sáng tác, tiếp tc nghiên cu, sưu tm, biên dchđã cho ra đời nhiu nhiu tác phm có giá tr cao v ni dung và ý nghĩa. Đáng chú ý là các tác phm: Tuyển tập thơ - Trường ca - Truyện Thơ (2003);  Văn hóa, văn nghệ cổ truyền với việc sáng tạo mới (Tập tiểu luận - 2005); Tục ngữ và thành ngữ Tày - Nùng Lạng Sơn (2009); Báo slao sli to tóop (Trai gái hát đối đáp) (2011); Tập truyện ngắn Hai vết sẹo (2011); Cỏ lẩu và sli Nùng Phản slình Lạng Sơn (2012); Tuyển tập Mã Thế Vinh - song ngữ Tày, Nùng - Việt (2013); Tập thơ Tình quê (2015)…

Như vậy là, chỉ trong khoảng gần 20 năm đầu thế kỷ XXI, tác giả Mã Thế Vinh đã viết, sưu tầm, biên dịch…và xuất bản hàng chục tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau (thơ, văn xuôi, tiểu luận, sưu tầm, biên dịch…). Ông đã góp phần quan trọng vào việc làm giàu có, phong phú thêm cho văn học Lạng Sơn, trên nhiều thể loại văn học. Ông cũng đã góp phần tạo nên một nét riêng - như một “đặc sn” của vùng văn hóa, văn học Lạng Sơn. Đó chính là bản sắc văn hóa Tày - Nùng Xứ Lạng - qua những bài thơ, những truyện ngắn, đặc biệt là qua các cuốn sách sưu tầm, biên dịch các bài Sli Nùng Cháo của Lạng Sơn (như: Báo slao sli to tóop, Cỏ lẩu) và sli Nùng Phản slình Lạng Sơn của ông. Ông đã sưu tm, biên dịch, hệ thống lại và sau đó lại phổ biến, lại trao cho người Nùng để h hát trong nhng dp l hi, trong những ngày cưới xin, ma chay của cộng đồng Tày - Nùng Xứ Lạng.

Nhà thơ Mã Thế Vinh (1932 - 2022)

 

Nhà thơ Mã Thế Vinh đã gắn bó và cống hiến trọn đời cho văn học nghệ thuật Lạng Sơn. Từ những bài thơ đầu tiên đến những sáng tác, những công trình nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch cuối cùng của ông - hầu như đều viết về mảnh đất, con người  Xứ Lạng thân thương này. Trong quá trình vận động và phát triển của đời sống văn học nghệ thuật Lạng Sơn từ khi thành lập đến nay - ông đã luôn có mặt và để lại những dấu ấn sâu sắc bằng các sáng tác cụ thể và bằng cả sự tham gia nhiệt thành, đầy trách nhiệm của mình thông qua vai trò của người quản lý, lãnh đạo văn học nghệ thuật của Tỉnh. Ông đã từng giữ các chức vụ: Trưởng đoàn Văn công Lạng Sơn, Chủ tịch Hội Văn học Lạng Sơn, Phó Giám đốc Ty Văn hóa - Thông tin của tỉnh Lạng Sơn. Ở cương v nào ông cũng hết sc c gng, nhiệt tình, tận tâm với công việc và đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đời sống văn học nghệ thuật của Tỉnh nhà.

Với hơn 50 năm cống hiến không ngừng nghỉ cho văn học nghệ thuật Lạng Sơn, nhà thơ Mã Thế Vinh được xem là biểu tượng văn hóa của dân tộc Nùng và của vùng đất Xứ Lạng. Ông là tác giả của hàng loạt tác phẩm thơ, truyện thơ, trường ca, nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian song ngữ Tày - Nùng - Việt, đặc biệt với các thể thơ Sli, lượn mang đậm bản sắc miền núi. Từ vai trò sáng tác đến quản lý, ông đã góp phần quan trọng thúc đẩy văn học DTTS phát triển. Lòng trung thành với Đảng, Bác Hồ, và tình yêu quê hương sâu nặng là nguồn mạch cảm hứng xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp văn chương đồ sộ và giàu giá trị nhân văn của ông.

Ông đã tng sáng tác các kch bn sân khu, tng sáng tác nhiu bài thơ (theo điu Sli, lượn, Phong Slư...) cho các diễn viên và đồng bào Tày - Nùng hát. Ông cũng là tác gi ca các Trường ca như: Trường ca Có Pèng (Anh Pèng), Trường ca Lằm tàng Chài pây (Con đường Anh đi); là tác giả và biên dịch các truyện thơ dài như: Truyện thơ Người đẹp vùng biên, truyện thơ Người mẹ cầm súng, truyện thơ Slam pék - Anh Tài (Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài)… Không chỉ sáng tác thơ, biên dịch truyện thơ, ông còn viết truyện ngắn (Tập truyện ngắn: Hai vết sẹo với 21 truyện ngắn) khá hấp dẫn và đậm màu sắc vùng cao, biên giới. Một điều dễ thấy trong tất cả các sáng tác của ông là: đã tập trung cao độ (trí tuệ và tình cảm) để viết về con người, cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của đồng bào quê hương Lạng Sơn yêu dấu của mình.

Một điểm đáng trân trọng nữa cần phải nhắc tới, phải ghi nhận trong quá trình sáng tác của nhà thơ, của nhà văn hóa Nùng Mã Thế Vinh, đó là: ông đã thay mt cho hàng vn, hàng triu người con của các DTTS nói chung, của tỉnh Lạng Sơn nói riêng, cất lên tiếng hát ca ngợi công ơn to lớn của Đảng, của Bác Hồ vĩ đại. Ông đã thể hiện tình cảm yêu mến và lòng biết ơn sâu sắc cùng sự trung thành “một lòng, một dạ” theo Đảng, “theo chân Bác” của đồng bào các DTTS Việt Nam. Ngay từ những bài thơ đầu tiên (Việt Bắc chuyển mình (1959), Hiến pháp ban hành như mùa Xuân (1960) đến các bài thơ ông sáng tác vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI (Theo chân Bác Hồ (2012), Con cháu Bác Hồ (2013), Hoa Đào nở sáng mặt (2014)… ông đã có tới vài chục bài thơ, trường ca viết về Đảng, về Bác. Đó là những bài thơ, những tiếng hát ngợi ca Đảng, Bác Hồ hết sức chân thành, mộc mạc nhưng vô cùng sâu sắc và cảm động. Bởi đó chính là tiếng nói, là lòng biết ơn xuất phát từ trái tim, từ tấm lòng, từ tình cảm sâu sắc của  cộng đồng DTTS đối với Đảng, với Bác. Trong lòng đồng bào - Đảng, Bác H là MT TRI, là ÁNH SÁNG, là NGƯỜI đã cu cuc đời ca H - t trong đêm ti, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân, phong kiến miền núi, cùng các tp tc h lu đã tn ti hàng trăm năm - lên kiếp làm người. Đảng, Bác Hồ đã làm thay đổi xã hội miền núi, đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho cộng đồng các dân tộc, đã đem lại cảnh sắc tươi thắm, rực rỡ cho thiên nhiên, núi rừng - kể cả nơi tận cùng biên ải, xa xôi, hẻo lánh.

Đặc bit khi bước vào thi k Đổi mi - nhà thơ Mã Thế Vinh cũng đã thay mt cho đồng bào các DTTS nói chung, cho bà con DTTS Lng Sơn nói riêng, gi gm lòng tin tuyt đối vào con đường Đổi mi mà Đảng đã la chn, đã dn dt toàn dân tc đi lên, bước sang mt giai đon lch s mi đầy thách thc nhưng cũng đầy thành tu đáng t hào. Nhng bài thơ tràn đầy nim vui, nim tin vào công cuộc Đổi mới cùng sự đổi thay mau chóng của quê hương - đặc biệt vào là vào những năm đầu thế kỷ XXI, đã tạo cho thơ ông một sinh khí mới, một màu sắc mới, trẻ trung hơn, sôi động hơn, hiện đại hơn. Đó cũng chính là một bước vận động mới, chuyển biến mới trong sự nghiệp sáng tác, sáng tạo của ông theo dòng chảy văn học Lạng Sơn trong quá trình vận động, đổi mới của mình (ví dụ như các bài thơ: Đọng li, Mặt trời xứ Lạng, Du Xuân, Hoa Đào nở sáng mặt, Đi ch di già, Nhượng bạn lên đường, “Con đường Thất Khê, Con cháu Bác Hồ, Lạng Sơn giàu có...).

Có thể thấy - nhà thơ Mã Thế Vinh đã luôn đồng hành cùng văn học nghệ thuật Lạng Sơn trong suốt hơn nửa thế kỷ qua (từ khi thành lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn đến khi nhà thơ “trở về” yên ngh trong lòng đất M) và ông đã có nhiu đóng góp rt đáng trân trng. Đặc biệt là giai đoạn từ 1975 đến nay, ông đã để lại một “di sản” quý giá cho đời sống văn học Lạng Sơn với các cuốn sách nghiên cứu, sưu tầm, biên dịch vốn văn nghệ dân gian dân tộc Tày - Nùng; với các tác phẩm thơ (bao gồm cả các Truyện thơ và Trường ca), các tác phẩm văn xuôi (truyện ngắn và tiểu luận). Điều đáng trân quý ở ông là: ông luôn sáng tác luôn viết bằng hai thứ tiếng Tày, Nùng - Việt. Ông đã luôn tư duy và viết bằng tiếng Tày - Nùng trước, sau đó mới dịch ra tiếng Kinh (tiếng Việt) sau. Vì thế, bản sắc văn hóa dân tộc luôn thấm đẫm trong từng tác phẩm, từng câu thơ, từng hình tượng nghệ thuật đến cách diễn đạt, đến cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật của ông và tấm lòng và tình cảm, niềm tin của ông đối với Đảng, với Bác cũng chính là tấm lòng, tình cảm và niềm tin của cộng đồng các DTTS nói chung, của các dân tộc Lạng Sơn nói riêng đối với Đảng, với Bác Hồ kính yêu.

91 mùa Xuân (1932 - 2022) - với một cuộc đời, một sự nghiệp, một tấm lòng trong trẻo, tràn đầy tình yêu và lòng tự hào về quê hương Xứ Lạng - nhà thơ dân tộc Nùng - Mã Thế Vinh - đã mang đến và đã để li cho đời sng văn hc Lng Sơn những tác phẩm văn chương nhiều giá trị, nhiều ý nghĩa và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc; đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc nói chung, trong lòng những người yêu văn hóa Tày - Nùng nói riêng, trong cả nước. Ông thực sự trở thành một biểu tượng văn hóa đáng tự hào của Xứ Lạng thân thương.

 

PGS, TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 607, tháng 5-2025

 

;