Trong suốt 95 năm qua (1930-2024), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mọi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp Nhân dân trong Mặt trận thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào...

Đại hội Mặt trận thống nhất Việt Nam được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, hợp nhất 3 tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Ảnh: Kim Hùng/TTXVN
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3/1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giai đoạn 1935-1941, Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam có những hình thức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng như: Hội Phản đế Liên minh (3/1935 - 10/1936), Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương (10/1936 - 3/1938), Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương (3/1938 - 11/1940), Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương (11/1940 - 5/1941).
Ngày 28/1/1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do Người triệu tập diễn ra tại lán Khuổi Nặm, Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng (cũ), tỉnh Cao Bằng. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là đấu tranh giải phóng dân tộc và quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống Pháp - Nhật lấy tên là Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh).
Ngày 25/10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Tuyên ngôn của Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Chương trình của Mặt trận Việt Minh cũng là nhiệm vụ mà Chính phủ Nhân dân tương lai sẽ thực hiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao và đối với các tầng lớp Nhân dân.
Về tổ chức, Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Ở xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ có Ban Chấp ủy Việt Minh cấp ấy; toàn quốc thì có Tổng bộ Việt Minh.
Với chủ trương, chính sách đúng đắn, Mặt trận Việt Minh đã thu hút được ngày càng đông đảo các tầng lớp, giai cấp có tinh thần yêu nước và chống đế quốc thực dân vào các hội cứu quốc như: Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu quốc... Các hội Cứu quốc sau đó đều là thành viên nòng cốt của Mặt trận Việt Minh.
Đầu tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi Nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Ngày 12/4/1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc.
Đến giữa năm 1945, Mặt trận Việt Minh đã có 5 triệu hội viên. Sự phát triển của Mặt trận Việt Minh đã tạo điệu kiện cho Đảng ta xây dựng các căn cứ địa cách mạng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng.
Ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào.
Quốc dân Đại hội Tân Trào đã thông qua Mười chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện. Mười chính sách của Việt Minh bao gồm:
“1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
2. Võ trang nhân dân. Phát triển Quân Giải phóng Việt Nam.
3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tùy từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5. Ban bố những quyền của dân cho dân:
- Nhân quyền.
- Tài quyền (quyền sở hữu).
- Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
7. Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng.
9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hóa mới.
10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ”1.
Mười chính sách của Việt Minh do Quốc dân Đại hội thông qua có vai trò như là “Hiến pháp tạm thời” của nước Việt Nam sau này.
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã thành công. Ngày 2/9/1945, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, đại diện Tổng bộ Việt Minh, đồng chí Nguyễn Lương Bằng đã đọc Lời hiệu triệu đồng bào cả nước, trong đó nêu rõ: Quyền độc lập của chúng ta còn mong manh. Giành được chính quyền là việc khó, giữ vững chính quyền lại càng khó khăn hơn. Bởi vậy, Mặt trận Việt Minh sẽ kêu gọi Nhân dân một lòng ủng hộ Chính phủ cách mạng để xây dựng đất nước và sẵn sàng đập tan mọi kế hoạch xâm lược.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, cả dân tộc bước vào thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã thực hiện việc đại đoàn kết toàn dân tộc bằng cách đóng góp sức của mình để thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời vào ngày 1/1/1946, Chính phủ liên hiệp Kháng chiến vào ngày 2/3/1946 và sau đó là Chính phủ liên hiệp Quốc dân vào ngày 3/11/1946.
Tại Quốc hội khóa I (1946-1960), Mặt trận Việt Minh có 120 đại biểu trên tổng số 403 đại biểu và đã góp công to lớn trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành một nhà nước pháp quyền vì dân.
Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) được thành lập vào ngày 25/9/1946. Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946), Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền, vận động đông đảo Nhân dân tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 3/3/1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thống nhất lại thành Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Về sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta sẽ đánh tan tất cả mọi kẻ thù đế quốc thực dân”2. Đúng như nhận định của Người, Mặt trận Liên Việt sau đó không ngừng lớn mạnh, tạo nên sức mạnh to lớn khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng.
Tại lễ mừng Quốc khánh vào ngày 2/9/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên Nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước”3.
Ngày 10/9/1955, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất họp tại Hà Nội đã quyết định thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 25/4/1961, kết thúc bài phát biểu tại Đại hội Đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại câu khẩu hiệu mà lần đầu đã phát biểu cách đó 10 năm (1951) tại Đại hội hợp nhất Mặt trận Việt Minh-Liên Việt: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”4.
Bên cạnh đó, từ cao trào đấu tranh của Nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời vào ngày 20/12/1960. Sau đó, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam cũng ra đời vào ngày 20/4/1968.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đã góp phần to lớn trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đã giành thắng lợi, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất. Từ ngày 31/1/1977 đến 4/2/1977, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam quyết định hợp nhất 3 tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, lấy tên chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nguồn lực to lớn để xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta đề cao và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) đã nhấn mạnh “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”5 nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Ngày 24/11/2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc (Nghị quyết 43). Nghị quyết 43 khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu và là đường lối, chiến lược, xuyên suốt của Đảng, đây là nguồn sức mạnh to lớn và nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi.
Trong bài viết “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (4/8/2024), Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với truyền thống tốt đẹp, khí phách và tinh hoa của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; với bản lĩnh, kiên định lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, Đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng là ước vọng của toàn dân tộc “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”...”.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và toàn diện của đất nước ta đã khẳng định việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn để xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
___________________
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 435-439.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 48.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 104.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 120.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr. 57.
NGUYỄN TOÀN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 625, tháng 11-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
