Lục Ngạn, huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang được mệnh danh là miền trái ngọt. Nơi đây không chỉ hội tụ hoa thơm trái ngọt muôn phương, làm nên một vùng cây ăn quả nổi tiếng của cả nước mà còn là chốn “địa linh, nhân kiệt”, mang truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời với bao di tích, địa danh, nhân danh lịch sử còn lưu dấu. Lục Ngạn hiện là nơi cư trú, tỏa sáng sắc màu văn hóa của 8 dân tộc anh em: Kinh, Nùng, Tày, Sán Dìu, Sán Chí, Cao Lan, Dao và Hoa. Trong đó, nét đẹp văn hóa đặc trưng nhất là lối hát dân ca các dân tộc mỗi dịp chợ phiên, biến chợ phiên thành chợ hội của đồng bào các dân tộc vùng Lục Ngạn.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Lại Thanh Sơn trao bằng công nhận di sản văn hóa phi vật thể cho dân ca Sán Chí và dân ca Cao Lan
Tìm lại câu hát
Sau bao biến cố của lịch sử, hát dân ca các dân tộc mỗi dịp chợ phiên trong vùng Lục Ngạn bị mai một từ những năm 80 của thế kỷ trước, thưa vắng dần và mất hẳn những năm sau đó. Vậy, chúng ta cùng ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội hát chợ hội này. Từ xa xưa, các chợ hội từ vùng cao như chợ Thác Lười (xã Tân Sơn ngày 2 và 7 tháng Giêng), chợ Chũ (ngày 3, ngày 8), chợ Kép (ngày 4 và 9), chợ Biển (ngày 5 và 10), chợ Lim (ngày 6 và 11), chợ Kim (ngày 2 và 7) đều ngập tràn câu hát dân ca. Người già, người trẻ, gái trai các dân tộc thiểu số vẫn xúng xính áo quần, ngựa xe, bộ hành xuống chợ. Bên cạnh các sản vật nông, lâm, thổ sản là những điệu hát giao duyên. Câu hát cứ chảy dài theo dòng suối, dòng sông rồi hội tụ vào ngày 18 tháng 2 âm lịch hằng năm tại chợ Chũ, chợ lớn nhất vùng, trở thành ngày truyền thống. Các điệu hát của đồng bào các dân tộc có tự bao giờ không ai rõ, chỉ biết dân tộc Nùng có hát sloong hao, dân tộc Sán Dìu có hát soọng cô, dân tộc Sán Chí có hát shắng cộ, dân tộc Tày có hát then, hát lượn, phong slư… dân tộc Cao Lan có hát sình ca, dân tộc Dao có hát páo dung.v.v. các điệu hát giao duyên, tự tình. Nó là chợ hội của cả một vùng, không chỉ huyện Lục Ngạn bởi còn cuốn hút người dân từ các địa phương khác cùng về tham dự, từ các huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Đồng Đăng, Hữu Lũng của Lạng Sơn, đến các huyện lân cận trong tỉnh là Lục Nam, Lạng Giang, Sơn Động nhằm ngày 18 về chung vui.
Ấy thế nhưng, sau bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sinh hoạt hát dân ca các dân tộc mỗi dịp chợ phiên trong vùng Lục Ngạn bị mai một từ những năm 80 của thế kỷ trước, thưa vắng dần và mất hẳn những năm sau đó.
Các dân tộc tham gia Ngày hội Sloong Hao Lục Ngạn
Các cơ quan chức năng ở Lục Ngạn không phải không có những trăn trở trước sự mai một về bản sắc văn hóa dân tộc, về sự vắng bóng của lối hát dân ca các dân tộc thiểu số ở các chợ hội. Từ mùa Xuân năm 1996 - trước khi có Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) - Phòng Văn hóa - Thông tin huyện đã tham mưu cho Huyện ủy, UBND Huyện tổ chức “Hội hát sloong hao, sli, lượn huyện Lục Ngạn lần thứ Nhất” tại khu du lịch sinh thái Khuôn Thần, một không gian lý tưởng cho hát dân ca các dân tộc. Các hoạt động cắm trại, các trò chơi dân gian được tái hiện cùng những câu hát dân ca. Sau 2 năm tổ chức, không khí hát dân ca đã hồi sinh, thu hút bà con nhiều dân tộc tham gia. Từ mùa Xuân năm 1998, Sở VHTT Bắc Giang đã phối hợp với UBND huyện Lục Ngạn tổ chức “Hội hát dân ca các dân tộc tỉnh Bắc Giang lần thứ Nhất” với quy mô toàn tỉnh tại Sân vận động trung tâm huyện lỵ Lục Ngạn. Kể từ đó, Lục Ngạn tiếp tục duy trì hoạt động này, cho đến nay tròn 30 mùa hội. Đã thành thông lệ, hằng năm cứ đến 17, 18 tháng Hai âm lịch (ngày hát chợ hội truyến thống) Ngày hội Văn hóa - Thể thao các dân tộc lại được mở tại trung tâm huyện lỵ Lục Ngạn (ngày 11, 12 tháng Giêng tại chợ Thác Lười, xã Tân Sơn, huyện Lục Ngạn là “Ngày hội Văn hóa - Thể thao các dân tộc vùng cao” Lục Ngạn). Khi hoa vải đang nở trắng nương đồi cũng là lúc các bóng áo chàm xuống núi tìm nhau qua câu sloong hao, câu sli, câu lượn. Hình thức, quy mô hội hát ngày càng mở rộng, nhất là sau khi có Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa VIII), tạo đà cho các hoạt động văn hóa phát triển. Cũng nhân Hội hát dân ca lúc bấy giờ đang tổ chức, mùa Xuân năm 2003, huyện Lục Ngạn được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) có Quyết định số 752 QĐ-BVHTT ngày 3/4/2002 cho Lục Ngạn thực hiện đề án “Xây dựng và phát triển văn hóa huyện miền núi Lục Ngạn giai đoạn 2001-2010” (thí điểm của các tỉnh miền núi phía Bắc), đồng thời tổ chức Lễ phát động nhân dân các dân tộc thực hiện, lồng ghép vào Ngày hội. Từ Hội hát được nâng lên thành “Ngày hội Văn hóa - Thể thao các dân tộc huyện Lục Ngạn” cho đến nay. Ngày hội là một trong 4 hội lớn của Bắc Giang được UBND tỉnh công nhận.
Điều đặc biệt là Ngày hội không mang yếu tố tâm linh mà hoàn toàn mang ý nghĩa trao truyền, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, lối hát dân ca các dân tộc Lục Ngạn. Cùng với hát dân ca quan họ, hát chèo, tấu nhạc cụ dân tộc, các điệu dân vũ là trình diễn và thi người mặc trang phục dân tộc đẹp, thi văn hóa ẩm thực, trưng bày các sản phẩm ẩm thực, các món ăn truyền thống. Bên cạnh nét văn hóa đặc trưng đó, các hoạt động thi cắm trại, thi các trò chơi dân gian (như: kéo co, đẩy gậy, bịt mắt đập niêu, ném còn…) cùng với các môn thi đấu bóng chuyền, bóng đá, bóng chuyền hơi người cao tuổi, cầu lông, bóng bàn… luôn thu hút đông đảo nhân dân về dự hội.
Để bảo tồn bền vững và phát triển rộng khắp, việc sưu tầm, xuất bản các điệu hát của dân ca Sán Chí, dân ca Sán Dìu, dân ca Cao Lan…; mở các lớp truyền dạy hát dân ca dân tộc được tổ chức, các CLB hát dân ca được thành lập. Mỗi CLB được huyện đầu tư kinh phí may sắm trang phục dân tộc và nhạc cụ truyền thống. Cũng từ đó, năm 2012, dân ca Sán Chí và dân ca Cao Lan đã được đưa vào danh mục “Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia”. Nhiều nghệ nhân các dân tộc được nhận danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân” và “Nghệ nhân Ưu tú”. Hằng năm, huyện đều tổ chức Ngày hội và Giao lưu hát hội để bảo tồn hình thức sinh hoạt văn hóa này. Các ngày hội văn hóa, các lễ hội đền, chùa, các Hội diễn, Liên hoan NTQC đều có chương trình và tiêu chí hát dân các dân tộc. Không chỉ riêng Ngày hội Văn hóa các dân tộc ở Lục Ngạn mà Hội hát, chợ hội của huyện cũng thu hút nhiều đoàn khách hát dân ca của tỉnh bạn về tham dự, lan tỏa tới các vùng miền trong tỉnh, trong nước. Nhiều nơi học tập, làm theo. Từ Lục Ngạn, đã hình thành thêm Ngày hội văn hóa các dân tộc của nhiều huyện, nhiều tỉnh và khu vực Đông Bắc, Tây Bắc.
Có thể nói, Lục Ngạn là vùng đất giàu tiềm năng, mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc, một miền quê văn hóa đang lên hương cùng trái ngọt, luôn thân thiện, hấp dẫn và mời gọi du khách.
Bảo tồn và phát huy
Từ những thành công ban đầu, năm 2001, lớp dạy hát dân ca dân tộc Nùng đầu tiên được mở tại Nhà văn hóa xã Tân Sơn. Đến nay, đã hình thành, tổ chức được nhiều CLB hát dân ca của các dân tộc từ thôn bản để phục hồi, phát huy, truyền dạy cho lớp trẻ đều được thể hiện, giao lưu trong các ngày lễ, Tết, ngày hội của thôn bản địa phương. Các trang phục dân tộc được tái hiện, các món ẩm thực dân tộc được phát huy để thi, trình diễn trong ngày lễ hội, trong lễ cưới, hỏi đã trở thành phong trào được nhân dân đồng tình, hưởng ứng.
Ở thời điểm hiện tại, Lục Ngạn có 32 CLB hát dân ca dân tộc ở các xã: Quý Sơn, Giáp Sơn, Nam Dương, Thanh Hải, Hồng Giang, Biên Sơn. Biển Động, Tân Hoa, Tân Sơn, Tân Mộc, Hộ Đáp, Kim Sơn, Kiên Lao, Đèo Gia, Phượng Sơn, Nghĩa Hồ, Sơn Hải, Phong Vân… đại diện cho 5 dân tộc: Sán Dìu, Nùng, Sán Chí, Cao Lan và Tày. Số lượng CLB nhiều nhất là xã Giáp Sơn, có cả hai loại hình hát dân ca là Sán Dìu và dân ca Nùng. Xã Quý Sơn có dân ca Sán Dìu và dân ca Tày. Những năm gần đây, Lục Ngạn tổ chức luân phiên “Giao lưu hát dân ca các dân tộc” cho các CLB trong huyện tại các điểm xã: Quý Sơn, Giáp Sơn, Kiên Lao, Phong Vân, Biên Sơn và Tân Sơn. “Ngày hội Văn hóa - Thể thao các dân tộc” được mở tại trung tâm huyện lỵ Lục Ngạn, mang đậm sắc màu dân tộc, đem lại hiệu quả xã hội cao và nghiêm túc trong hoạt động lễ hội, cũng là sản phẩm du lịch đặc sắc của Bắc Giang.
Nét mới của Ngày hội những năm gần đây là có tổ chức hát Quan họ trên hồ Thanh Niên, trưng bày sinh vật cảnh, trình diễn thư pháp của CLB thư pháp Lục Ngạn, trưng bày và bán các sản phẩm văn hoá ẩm thực: mật ong, vải thiều khô, mỳ Chũ, rượu Kiên Thành…; thi văn hóa ẩm thực, thi bày cỗ truyền thống (mỗi xã làm một mâm cỗ cổ truyền). Các hoạt động văn hóa, các môn thi đấu thể thao diễn ra sôi nổi. Đặc biệt là tổ chức riêng 2 sân khấu, thi văn nghệ ca, múa, nhạc tổng hợp và thi hát đối đáp dân tộc của 32 CLB hát dân ca dân tộc trong huyện, thi trình diễn trang phục dân tộc được chuẩn bị kỹ lưỡng. Các tỉnh bạn tham gia giao lưu: từ cồng chiêng Hòa Bình, các vũ điệu xòe Thái Điện Biên, Sơn La, các làn điệu dân ca, dân vũ của Lạng Sơn, Cô Tô (Quảng Ninh)… đến câu ví giặm của Quỳ Hợp (Nghệ An). Một số CLB hát dân ca các dân tộc ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn… cũng tự kết nối cùng nhau tụ hội về Lục Ngạn. Điều phấn khởi là trong ngày hội của các xã và của huyện những năm gần đây, không ít người đã tự hát theo nhóm sở thích. Trang phục đi dự hội cũng đúng theo lối cổ truyền, sắc chàm tươi rói bên hoa đào ngày Xuân. Các điệu hát giờ đây có lời mới ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương đất nước, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và địa phương.
Công tác phát huy và phát triển các loại hình văn hóa phi vật thể được coi trọng, việc sưu tầm, in ấn các sản phẩm văn hóa như: dân ca Sán Chí, dân ca Cao Lan, dân ca Sán Dìu; tập sách “Truyền thống Văn hóa - Thông tin huyện Lục Ngạn”; các tập ca khúc, các đĩa VCD hát về quê hương Lục Ngạn… được phát hành tới cơ sở. Nhiều CLB tổ chức các lớp dạy hát dân ca, truyền dạy chữ Hán - Nôm cho dân tộc Nùng ở Tân Sơn, Biên Sơn; cho dân tộc Sán Dìu ở các xã, Quý Sơn, Giáp Sơn… Mỗi CLB hát dân ca ra đời được huyện hỗ trợ 3 triệu đồng để mua sắm trang phục dân tộc. Công tác bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được phát triển hài hòa, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết XDĐSVH” xây dựng Nông thôn mới. Các hội thi, hội diễn, các tiết mục đều có nội dung, chủ đề hát dân ca dân tộc để phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, gắn với nội dung các cuộc thi, góp phần tích cực, tạo đà cho việc thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương.
Di sản văn hóa trong tương lai
Để bảo tồn, phát huy thế mạnh và tiềm năng văn hóa các dân tộc Lục Ngạn, đi đôi với phát triển kinh tế, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lục Ngạn cũng rất mong có sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan chức năng trong việc bảo tồn các di sản văn hóa này. Đồng thời, đề nghị Sở VHTTDL, UBND tỉnh Bắc Giang, Bộ VHTTDL xem xét đưa “Ngày Hội Văn hóa - Thể thao các dân tộc huyện Lục Ngạn” và hát sloong hao dân tộc Nùng vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia trong tương lai. Dẫu biết rằng sắp tới có chủ trương xóa bỏ cấp huyện thì việc bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa, nhất là giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung và Lục Ngạn nói riêng vẫn cần được duy trì thường xuyên. Việc tổ chức, quy mô của cấp nào cũng cần có chỉ đạo sát sao. Bảo tồn có nghĩa là giữ gìn, mà muốn bảo tồn để phát huy, phát triển thì phải làm đi, làm lại và không thể ngắt quãng, 5 năm hoặc 3 năm mới tổ chức một lần. Chợ hội, hát hội là truyền thống hằng năm, hội là của dân từ bao đời. Vì vậy, việc duy trì là cả vấn đề, cần có cách tiếp nối cụ thể, sâu sát… Cách tổ chức trên sân khấu hiện nay cũng cần phải nghiên cứu…, bởi đó chỉ là nơi làm lễ khai mạc hoặc để thi hát, thi diễn; còn không gian văn hóa dân ca dân tộc cần có những vị trí phù hợp, câu hát dân ca được sinh ra từ núi rừng, từ con suối, từ tình yêu và lao động chứ không sinh ra trên sàn diễn. Rất mong các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng xem xét thấu đáo để văn hóa cùng song song phát triển với kinh tế như Nghị quyết và hội nghị Tổng kết 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng đã khẳng định.
Bài và ảnh: BÁ ĐẠT
Nguồn: Tạp chí VHNT số 606, tháng 5-2025