Bảo tồn và phát huy giá trị Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc 15 năm cuối đời (1954-1969), lưu giữ 13 di tích bất động sản, hàng nghìn tài liệu, hiện vật cùng cảnh quan gần 15ha gồm vườn cây và ao cá. Trong hơn nửa thế kỷ, Khu Di tích đã nỗ lực bảo tồn nguyên vẹn, đồng thời tích cực nghiên cứu, truyền thông, giáo dục về tư tưởng Hồ Chí Minh. Với gần 90 triệu lượt khách tham quan, Khu Di tích đã xuất bản nhiều ấn phẩm, có trang tin điện tử và tổ chức triển lãm. Để nâng cao hiệu quả, cần tăng cường nhận thức, hoàn thiện kế hoạch bảo tồn, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số hóa, cải thiện chất lượng phục vụ, khai thác du lịch và đào tạo đội ngũ chuyên nghiệp. Nơi đây thực sự là “địa chỉ đỏ” và “cầu nối” đưa di sản Hồ Chí Minh đến với mọi người.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm Di tích nhà 67 trong Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch - Ảnh tư liệu

Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (gọi tắt là Khu Di tích), là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc lâu nhất 15 năm cuối đời (1954-1969), cũng là nơi Người đã chữa bệnh và qua đời để vĩnh biệt đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế. Sau khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta những di sản vô giá, đó không chỉ là kho tàng lý luận cách mạng mà còn có các di tích bất động sản, động sản và môi trường cảnh quan gắn với cuộc sống đời thường của Người tại Khu Phủ Chủ tịch.

Khu Di tích có 13 di tích bất động sản đang được bảo quản và phát huy tác dụng, đó là: Di tích Phủ Chủ tịch, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp khách đối nội, đối ngoại; Di tích nhà 54, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc từ tháng 12-1954 đến tháng 5-1958; Di tích phòng họp Bộ Chính trị và tiếp khách; Di tích nhà BK1, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cán bộ đến báo cáo công việc và ký các Sắc lệnh. Di tích Nhà sàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 đến ngày 17-8-1969. Di tích nhà H67, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Bộ Chính trị (từ 1967 đến 1969) và là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chữa bệnh từ ngày 17-8-1969 cho đến khi Người qua đời vào ngày 2-9-1969. Căn phòng trưng bày thiết bị y tế phục vụ chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi nghỉ giải lao giữa phiên họp Bộ Chính trị và cũng là nơi hội đồng bác sĩ họp hội chẩn bệnh và đưa ra phác đồ điều trị cho Người từ ngày 24-8-1969; Di tích Nhà Phòng không; Di tích Hầm H66, nơi đảm bảo an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị khi có báo động. Di tích Nhà ga-ra ôtô, nơi trưng bày những chiếc xe đã dùng phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh; Di tích Nhà bếp A, nơi nấu ăn phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ tháng 12-1954 đến tháng 7-1969; Nhà bếp B, nơi nấu ăn phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tháng 7-1969 đến 2-9-1969…

Tổng số tài liệu, hiện vật vốn có thuộc các nhà Di tích là 1.738 đầu hiện vật, với gần 4.000 đơn vị hiện vật với nhiều chất liệu khác nhau (như: sứ, kim loại, đá, gỗ, thủy tinh, giấy, vải...). Hiện nay, Khu Di tích đang trưng bày 932 đầu hiện vật, với 1.858 đơn vị hiện vật. Cùng với đó là hàng ngàn tài liệu, tư liệu (như phim ảnh, các trang bản thảo...), hệ thống ảnh tư liệu về Bác trong những năm tháng sống và làm việc ở Khu Di tích (1954-1969).

Toàn bộ khu vườn có diện tích gần 15ha trong đó thảm cỏ, cây xanh chiếm hơn 2/3 diện tích. Vườn cây có 46 thảm cây xanh với 1.922 cây các loại, trong đó có 1.425 cây thân gỗ và 497 cây thân bụi, thân thảo, thuộc 161 loài cây, 54 họ thực vật; 78 loài có nguồn gốc trong nước, 73 loài có nguồn gốc nước ngoài; 35 loài là cây ăn quả, 59 loài là cây bóng mát, 67 loài là cây hoa, cây cảnh. Đặc biệt, trong đó có 50 cây được Bác Hồ trồng hoặc trực tiếp chăm sóc như: cây vú sữa, cây dừa miền Nam, cây xanh bốn mùa, dừa lửa, cọ dầu, cây đa kiên trì, cây bụt mọc... Mỗi cây trong vườn là một hiện vật sống đã gắn với những kỷ niệm về Bác.

Cùng với vườn cây là ao cá Bác Hồ. Ao cá có diện tích 3.320m², với trữ lượng gần 5.000kg cá các loại, thuộc 14 loài và 6 nhóm: chép, trôi, rô phi, mè, trắm cỏ… có nhiều loài đã được Bác Hồ nuôi dưỡng và theo dõi quá trình sinh trưởng. Năm 1959, hợp tác xã Tiền Phong - nay là phường Yên Sở, Hà Nội là đơn vị đầu tiên được Bác Hồ gửi cho giống cá rô phi để nuôi.

Ngay sau khi Bác mất, ngày 16-9-1969, thực hiện chỉ thị của Đảng và Nhà nước, Cơ quan CQ41 bắt đầu tiến hành vẽ bản đồ khoanh vùng Khu vực 2-9, chụp ảnh hiện trạng các di tích, ghi chép, thống kê, đăng ký vào số kiểm kê bước đầu để khẳng định tính pháp lý đầu tiên của Khu Di tích. Đến nay, toàn bộ không gian Khu Di tích đã được định vị chính xác trên bản đồ, với vị trí, chi tiết cụ thể cho từng ngôi nhà, vườn cây, gốc cây, ao cá, đường đi trong Khu Di tích đã được xây dựng hồ sơ khoa học với nội dung thông tin đầy đủ, đa dạng, đảm bảo đầy đủ các yếu tố khoa học, đúng nguyên tắc bảo tàng. Kết quả, đã xây dựng được 13 bộ hồ sơ di tích, 1.098 bộ hồ sơ hiện vật và đã chuyển đổi số được: 641 bộ hồ sơ với đầy đủ các yếu tố: lý lịch, bản ghi chép hiện vật, phiếu kiểm kê hiện vật (với 26 tiêu chí), lời kể của các nhân chứng, các bài viết nghiên cứu có liên quan, ảnh chụp, bản vẽ thiết kế, đạc họa và sơ đồ định vị hiện vật...

Công tác sưu tầm luôn được Khu Di tích đẩy mạnh, tính đến nay đã sưu tầm, phục chế và làm lại được 1.350 hiện vật để phục vụ công tác trưng bày phát huy tác dụng các Nhà di tích. Ngoài ra, Khu Di tích đã sưu tầm, bổ sung vào kho tư liệu hàng nghìn tư liệu (gồm ảnh và các trang tài liệu) để phục vụ công tác nghiên cứu, tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khu Di tích Phủ Chủ tịch là di sản mà các di tích còn tương đối nguyên gốc. Tuy nhiên, với các chất liệu khác nhau của các nhà di tích và hệ thống hiện vật, tài liệu rất dễ bị tác động của môi trường, khí hậu và sự xâm nhập của côn trùng, nấm mốc… Đặc thù đó đã làm cho nhiệm vụ bảo vệ, bảo quản giữ gìn lâu dài, nguyên trạng di tích, tài liệu hiện vật và cảnh quan môi trường của Khu Di tích là hết sức khó khăn.

Trong quá trình thực hiện tu bổ, bảo quản, Khu Di tích đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn như: Công ty 195 - Binh đoàn 11, Viện Hóa kỹ thuật quân sự, Bộ Tư lệnh Công binh (Bộ Quốc phòng); Sở Giao thông Công chính - Hà Nội; Trung tâm phòng trừ mối Thủy lợi, Viện Điều tra quy hoạch Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Tổng cục Kỹ thuật - Bộ Công an...

Công tác nghiên cứu khoa học là khâu quan trọng góp phần to lớn trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của Khu Di tích. Tính đến nay, Khu Di tích đã thực hiện 8 đề tài khoa học cấp Bộ; 26 đề tài khoa học cấp cơ sở; Tổ chức và phối hợp tổ chức thành công hơn 80 cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học về Chủ tịch Hồ Chí Minh và về Khu Di tích, trong đó có nhiều cuộc có quy mô và ý nghĩa lớn.

Hoạt động truyền thông, tuyên truyền, giáo dục giá trị di tích luôn được Khu di tích quan tâm, đẩy mạnh: Khu Di tích đã xuất bản được 145 đầu sách; xuất bản phẩm tờ gấp giới thiệu về Khu Di tích bằng 5 thứ tiếng (Anh, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc và Tây Ban Nha), 10 bộ bưu ảnh song ngữ Việt - Anh; 9 mẫu ảnh về Bác Hồ... và nhiều bộ sách bằng tiếng nước ngoài khác… Đặc biệt, từ năm 2007, Khu Di tích đã xuất bản 35 số Đặc san Thông tin tư liệu và được cấp Mã số chuẩn quốc tế (ISSN). Đây là sự ghi nhận về nội dung, hình thức và chất lượng khoa học của cuốn tạp chí. Năm 2008, Khu Di tích ra đời trang tin điện tử: ditichhochiminhphuchutich.gov.vn, đến nay đã có hơn 20 triệu lượt người truy cập. Đồng thời, Khu Di tích còn phối hợp với 26 cơ quan truyền thông để thực hiện nhiều phóng sự, xây dựng nhiều bộ phim tư liệu về Khu di tích và về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 15 năm Người sống và làm việc tại Khu Phủ Chủ tịch; Cung cấp tài liệu, hình ảnh, trao tặng sách, lập tủ sách Hồ Chí Minh cho nhiều địa phương trong cả nước... Ngoài ra, Khu Di tích đã tổ chức 65 cuộc triển lãm chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Khu Di tích và các địa phương trong cả nước, 15 cuộc triển lãm về Chủ tịch Hồ Chí Minh tại nước ngoài như: Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Chile, Ma-rốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương Quốc Bỉ... Mặt khác, Khu Di tích đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Bác Hồ cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội, các buổi lễ báo công, kết nạp Đảng, sinh hoạt chính trị, nói chuyện chuyên đề, sáng tác và triển lãm tranh nghệ thuật về Bác Hồ…

Từ năm 1969 đến hết tháng 6-2025, Khu di tích đã đón tiếp, phục vụ gần 90 triệu lượt khách (trong đó có hơn 16 triệu khách quốc tế từ 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới) đến Khu Di tích để tham quan, học tập, tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Năm 2016, Bộ Chính trị ra Chỉ thị tăng cường công tác tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh và phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Khu Di tích đã trở thành “địa chỉ đỏ”, “trường học” thực tiễn sinh động về giáo dục truyền thống cách mạng, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

Hơn nửa thế kỷ thực hiện công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích, chúng ta có thể tự hào rằng, đây là một trong số rất ít di tích lịch sử cách mạng của Việt Nam - di tích lưu niệm Danh nhân còn giữ được gần như nguyên vẹn các bộ phận cấu thành dưới dạng nguyên gốc. Khu Di tích thực sự là “cầu nối” những giá trị di sản Hồ Chí Minh với dân tộc và thế giới.

Từ thực tiễn công tác bảo tồn và phát huy giá trị Khu Di tích và nhận thức, kinh nghiệm công tác, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức về giá trị, tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của Khu Di tích, trên cơ sở đó có kế hoạch và các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích. Hoạt động bảo tồn và phát huy tác dụng ở Khu Di tích phải đư­ợc xác định là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, nhằm góp phần quan trọng trong sự nghiệp đổi mới phát triển và hội nhập của đất nước.

Thứ hai: Tiếp tục xây dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển theo hướng bảo tồn, phát huy giá trị tốt nhất đối với các nhà di tích, tài liệu, hiện vật và cảnh quan môi trường di tích; nghiên cứu chỉnh lý, trưng bày bổ sung nội thất một số nhà di tích, như Nhà sàn, Nhà 54, Nhà BK1, Bếp A, Bếp B… để nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan. Cùng với đó là tăng cường hoạt động sưu tầm, bổ sung tài liệu, hiện vật, lời kể nhân chứng đối với các Nhà di tích.

Thứ ba: Thư­ờng xuyên đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học đối với các di tích, tài liệu, hiện vật và môi tr­ường cảnh quan di tích. Tăng cường áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào công tác bảo tồn và phát huy giá trị Khu Di tích. Đây là một trong những giải pháp cần lưu ý, bởi xuất phát từ tính đặc thù của Khu Di tích như đã phân tích ở trên. Bên cạnh việc đầu t­ư hợp lý, đúng h­ướng về trang thiết bị, phư­ơng tiện, là phải ­ưu tiên việc ứng dụng khoa học công nghệ số để thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ chính trị.

Tăng cường truyền thông trong nước và quốc tế, cùng với đó, là tiếp tục phối hợp hiệu quả của các cơ quan chuyên môn có liên quan trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị Khu Di tích. Chú trọng hơn nữa mở rộng giao l­ưu, hợp tác, trao đổi và th­ường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác bảo tồn và phát huy tác dụng giáo dục từ giá trị Khu Di tích.

Thứ tư: Đẩy nhanh số hóa di sản Hồ Chí Minh tại Khu Di tích bằng việc ứng dụng công nghệ, thiết bị điện tử thực hiện định dạng số về hình ảnh, âm thanh và câu chuyện của từng di tích, hiện vật vườn cây, ao cá. Việc thực hiện xây dựng dữ liệu số về di tích sẽ tạo nguyên liệu “đầu vào” một cách có hệ thống, chiều sâu về những giá trị Khu Di tích, đáp ứng mục đích, yêu cầu bảo vệ, khai thác giá trị di sản.

Số hóa di sản Hồ Chí Minh phải được xem là phương thức, giải pháp đột phá để thay đổi trải nghiệm văn hóa và làm cho di sản Hồ Chí Minh hấp dẫn, đến gần với công chúng hơn. Tại Hội thảo khoa học, quan điểm được khẳng định: Đẩy nhanh số hóa di sản tại Khu Di tích là đòi hỏi của thực tiễn, cũng là nhiệm vụ cấp bách đặt ra trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích hiện nay. Đặc biệt là Khu Di tích sẽ thực hiện xây dựng chương trình giáo dục di sản ứng dụng công nghệ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác giáo dục di sản Hồ Chí Minh.

Thứ năm: Đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan. Trước hết, đòi hỏi mỗi cán bộ, viên chức và người lao động Khu Di tích phải hướng tới sự chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao. Trong đón tiếp khách tham quan, phải có thái độ lịch sự, nhã nhặn, ân cần khi khách cần giúp đỡ. Đối với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương, nguyên thủ quốc gia, chính khách nước ngoài… đến tham quan, dâng hương tưởng niệm, ngoài đón tiếp nhiệt tình, chu đáo, rất cần thái độ trọng thị. Đối với các đoàn khách tham quan nghiên cứu học tập về Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải có nhiều hình thức cung cấp thông tin liên quan nhằm thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu thông tin của khách.

Để nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan, cần tăng cường hơn nữa trong việc tổ chức các sự kiện lồng ghép phát huy giá trị Khu Di tích. Đặc biệt Khu Di tích cần tạo ra môi trường để có sự liên kết giữa các hoạt động, cũng như góp phần quảng bá, lan tỏa các giá trị di tích.

Thứ sáu: Khai thác giá trị của Khu Di tích trong phát triển văn hóa và du lịch. Đây là một trong những vấn đề rất cần quan tâm của công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích hiện nay. Trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, phối hợp, liên kết mở rộng các tuyến, điểm di sản trên địa bàn Hà Nội để khách tham quan khi đến với Khu Di tích, có cơ hội tiếp cận với hệ thống di sản văn hóa của Thủ đô ngàn năm văn hiến.

Thứ bảy: Để làm tốt công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu Di tích, rất cần có một đội ngũ cán bộ, viên chức chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ khoa học có chuyên môn nghiệp vụ cao. Trước hết, cần tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng về nghiệp vụ đối với các lĩnh vực, như: nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê; bảo quản, trưng bày; tu bổ, tôn tạo; truyền thông, tuyên truyền, đối ngoại; quản lý, bảo tồn; công tác an ninh… Cùng với đó là làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao bản lĩnh chính trị, trao đổi kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Phải có kế hoạch cụ thể, dài hạn, ngắn hạn và thực hiện trong từng năm, từng giai đoạn.

Bên cạnh đó, rất cần chú trọng đội ngũ hướng dẫn thuyết minh của Khu Di tích. Một thống kê cho biết, hiện tổng số hướng dẫn viên thuyết minh của Khu di tích tại Phủ Chủ tịch chỉ có 12 người, trong đó có 1 tiếng Anh, 1 tiếng Trung. Việc thiết lập một đội ngũ tình nguyện viên biết ngoại ngữ, trẻ trung, năng động, nhiệt tình, thân thiện và hiểu biết về Hồ Chí Minh và về Khu Di tích… để hỗ trợ công tác tuyên truyền, phát huy giá trị Khu Di tích là vô cùng cần thiết (1).

Hơn nửa thế kỷ qua, Khu Di tích đã thực hiện tốt công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Hồ Chí Minh tại Khu Di tích. Khu Di tích không chỉ mang giá trị Di tích lịch sử mà còn mang giá trị “cầu nối” với di sản văn hóa dân tộc và nhân loại. Khu Di tích là một địa chỉ đỏ về những giá trị lịch sử - văn hóa - du lịch của dân tộc và thế giới. Làm tốt công tác bảo tồn, phát huy là thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao phó đối với việc giữ gìn di sản Hồ Chí Minh tại Khu Di tích trong quá trình phát triển, hội nhập.

_______________________

1. Nguyễn Thị Lệ Thủy, Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, ditichhochimiphuchutich.gov.vn, 17-5-2022.

LƯƠNG THỊ LAN

 Nguồn: Tạp chí VHNT số 615, tháng 8-2025

;