Bảo tồn làng nghề truyền thống và phát triển du lịch: Hướng đi bền vững từ chính sách đến thực tiễn

Từ việc tôn vinh nghệ nhân đến phát triển du lịch làng nghề, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đang từng bước xây dựng hệ sinh thái văn hóa – kinh tế đặc thù cho nông thôn Việt Nam.

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Tâm giới thiệu tranh Đông Hồ

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, việc gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa nghề truyền thống, đồng thời tích hợp hiệu quả với phát triển du lịch, đang trở thành chiến lược quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới và thúc đẩy nội lực văn hóa. Trên tinh thần thực hiện các Nghị định và Quyết định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ VHTTDL đã chủ động triển khai nhiều chính sách thiết thực nhằm hỗ trợ, tôn vinh nghệ nhân, bảo tồn làng nghề truyền thống, đồng thời khai thác hiệu quả tiềm năng văn hóa để phát triển du lịch làng nghề.

Tôn vinh nghệ nhân - gìn giữ linh hồn của làng nghề

Nghệ nhân - những người nắm giữ tri thức truyền thống và tinh hoa di sản – luôn là hạt nhân trong việc duy trì, bảo tồn và phát triển các nghề thủ công truyền thống. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Bộ VHTTDL đã chủ trì tham mưu trình Chính phủ ban hành hệ thống các văn bản pháp lý làm nền tảng cho việc hỗ trợ và tôn vinh nghệ nhân.

Tiêu biểu là Luật Di sản văn hóa số 45/2024/QH15 được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Luật quy định rõ ràng về chế độ đãi ngộ cho nghệ nhân, tạo hành lang pháp lý vững chắc để nghệ nhân có thể yên tâm truyền dạy, gìn giữ và phát huy giá trị di sản. Cùng với đó, hàng loạt Nghị định và Thông tư đã được ban hành, như Nghị định số 93/2023/NĐ-CP về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, hay Thông tư số 04/2025/TT-BVHTTDL về kiểm kê, phân loại và bảo quản di sản.

Du khách được thực hành làm gốm tại làng gốm sứ Bát Tràng, Hà Nội

Tính đến nay, đã có 1.750 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu, trong đó có 131 Nghệ nhân nhân dân và 1.619 Nghệ nhân ưu tú. Đây không chỉ là sự ghi nhận của Nhà nước mà còn là niềm tự hào của cộng đồng, thúc đẩy thế hệ trẻ kế thừa và phát huy nghề truyền thống.

Bên cạnh việc tôn vinh cá nhân, Bộ còn triển khai nhiều lớp tập huấn, truyền dạy nghề cho các nghệ nhân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng các mô hình câu lạc bộ dân ca, dân vũ, hay phục dựng trang phục dân tộc Khơ Mú tại Điện Biên... đã giúp bảo tồn không gian văn hóa nghề truyền thống, thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với bản sắc dân tộc.

Đưa làng nghề thành sản phẩm du lịch đặc thù

Nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2030 (theo Quyết định số 147/QĐ-TTg), Bộ VHTTDL đã ban hành Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch đến năm 2025, định hướng đến 2030, trong đó xác định rõ du lịch làng nghề là một trong những mũi nhọn đặc thù.

Các thành viên Câu lạc bộ văn hóa văn nghệ thôn Nà Quản, Thái Nguyên thực hành điệu múa bát

Chiến lược này đề cao việc kết nối giữa bảo tồn văn hóa dân tộc với phát triển du lịch bền vững, thông qua việc xây dựng tour du lịch trải nghiệm các làng nghề như gốm Bát Tràng, dệt lụa Vạn Phúc, tranh Đông Hồ, mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, rau Trà Quế… Không chỉ là nơi bảo tồn nghề, các làng nghề này đã trở thành điểm đến hấp dẫn với sản phẩm văn hóa đặc sắc, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

Tính đến giữa năm 2025, đã có 23 làng nghề được công nhận là điểm du lịch theo quy định của Luật Du lịch. Các điểm đến không chỉ thu hút du khách nhờ sản phẩm thủ công tinh xảo mà còn bởi trải nghiệm sâu sắc về văn hóa, con người và môi trường sinh hoạt địa phương.

Từ lý luận đến thực tiễn: Lồng ghép văn hóa trong phát triển nông thôn

Trong giai đoạn 2021–2025, Bộ VHTTDL đã tích cực lồng ghép nội dung văn hóa vào Chương trình xây dựng nông thôn mới và các chương trình mục tiêu quốc gia khác. Gần 20 lớp tập huấn văn hóa – xã hội được tổ chức cho đồng bào dân tộc thiểu số với các chủ đề gắn chặt với đời sống như bài trừ hủ tục, bảo tồn chợ phiên, giữ gìn quy ước, hương ước, phát triển du lịch cộng đồng.

Việc hỗ trợ truyền dạy nghề truyền thống ở Trà Vinh, khảo sát bảo tàng sinh thái vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Kon Tum... đã từng bước thiết lập mạng lưới lưu giữ ký ức văn hóa sống động, phục vụ cho phát triển bền vững.

Ngoài ra, các hoạt động như tổ chức đội văn hóa biểu diễn phục vụ vùng biên giới, phát động các cuộc thi sáng tác ca khúc, Đại sứ văn hóa đọc... cũng là những điểm sáng trong chiến lược phát huy văn hóa làng nghề một cách toàn diện và hiện đại.

Định vị sản phẩm làng nghề trong hệ sinh thái du lịch

Sự hội nhập giữa làng nghề và hoạt động du lịch không chỉ dừng ở việc mở cửa đón khách mà còn tiến xa hơn thông qua việc phát triển sản phẩm lưu niệm, mẫu mã bao bì phù hợp với thị hiếu khách hàng. Hợp tác giữa doanh nghiệp du lịch và làng nghề ngày càng chặt chẽ, hướng tới xây dựng chuỗi giá trị từ sản xuất – truyền dạy – trải nghiệm – tiêu thụ.

Nhiều sự kiện xúc tiến quảng bá du lịch làng nghề được tổ chức, như Lễ hội Văn hóa - Du lịch Quốc gia tại TP Huế, hội chợ quốc tế VITM, chương trình kết nối doanh nghiệp tại Châu Âu... Những sự kiện này góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa làng nghề Việt Nam ra thế giới.

Sở Du lịch Hà Nội đã triển khai ứng dụng 3D giới thiệu sản phẩm làng nghề, kết nối gần 300 làng nghề với cổng thông tin chính thức – một bước tiến quan trọng trong chuyển đổi số văn hóa và du lịch.

Những nút thắt cần tháo gỡ

Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, phát triển du lịch làng nghề cũng đối mặt với nhiều thách thức. Không gian du lịch tại các làng nghề phần lớn còn lẫn lộn với sinh hoạt dân cư và sản xuất nông nghiệp, gây khó khăn trong việc tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp.

Hạ tầng giao thông kết nối chưa đồng bộ, cảnh quan bị bê tông hóa, thiếu các điểm dừng chân, khu trưng bày, vệ sinh công cộng... cũng là những điểm yếu cản trở trải nghiệm du khách. Đặc biệt, nhiều làng nghề vẫn thiếu các dịch vụ phụ trợ như hướng dẫn viên, trải nghiệm thực tế, mua sắm tiện ích.

Sản phẩm làng nghề phục vụ du lịch còn nghèo nàn, chưa có mẫu mã chuyên biệt cho khách du lịch, thiếu kết nối giữa làng nghề và công ty lữ hành, dẫn đến khó khăn trong hình thành các tour du lịch chuyên sâu.

Hệ thống chính sách liên quan đến nghệ nhân vẫn chủ yếu dừng ở mức tôn vinh và an sinh, chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư xã hội hóa, hay khuyến khích lớp trẻ gắn bó với nghề.

Giải pháp chiến lược: Đề xuất từ thực tiễn

Để phát triển bền vững du lịch làng nghề và phát huy vai trò của nghệ nhân trong bối cảnh mới, Bộ VHTTDL đề xuất các nhóm giải pháp sau:

- Đối với địa phương: Tích cực quy hoạch phát triển làng nghề gắn với tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn, trong đó chú trọng khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Điều tra nhu cầu đào tạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, kỹ năng hướng dẫn, tiếp thị sản phẩm cho nghệ nhân và người lao động tại làng nghề. Hỗ trợ phục dựng hoạt động truyền thống, bảo tồn lễ hội, sinh hoạt văn hóa đi kèm sản phẩm làng nghề. Xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, bao bì sản phẩm phù hợp với du khách nội địa và quốc tế.

Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Rà soát, sửa đổi chính sách về di sản văn hóa theo hướng đồng bộ, tích hợp với du lịch, công nghiệp văn hóa, OCOP. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong quảng bá làng nghề, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường phối hợp liên ngành giữa văn hóa, nông nghiệp, du lịch và công thương để hình thành chuỗi giá trị bền vững từ bảo tồn đến khai thác.

Trong xu thế phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, làng nghề Việt Nam không chỉ là nơi lưu giữ văn hóa mà còn là không gian sáng tạo của nền kinh tế bản sắc. Với sự định hướng đúng đắn của các cơ quan quản lý và nỗ lực từ cộng đồng, nghệ nhân và doanh nghiệp, làng nghề truyền thống sẽ tiếp tục khẳng định vị thế là “cầu nối” giữa quá khứ và tương lai, giữa bản sắc và sáng tạo, giữa bảo tồn và phát triển.

THU TRANG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 616, tháng 8-2025

;