Quang cảnh Ngày Độc lập 2/9/1945 tại Ba Đình trước khi khai lễ - Nguồn ảnh: Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Trong tiến trình lịch sử của mỗi quốc gia, vào những thời khắc bản lề và mang tính bước ngoặt, thường xuất hiện những văn kiện có giá trị, mang ý nghĩa tuyên ngôn, khẳng định sự lựa chọn con đường phát triển cũng như chính nghĩa của dân tộc. Các văn kiện này không chỉ đánh dấu sự đoạn tuyệt hay kế thừa với quá khứ, mà còn định hình tính chính danh cho một trật tự chính trị - xã hội mới. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời công bố tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 là một minh chứng tiêu biểu. Văn kiện này không chỉ tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn khẳng định tính chính nghĩa, hợp pháp và hợp hiến của nền độc lập dân tộc trước nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hết sức đặc biệt. Sau lệnh Tổng khởi nghĩa, cách mạng Việt Nam đạt được thành quả quan trọng: giành chính quyền trên phạm vi cả nước, trong một thời cơ lịch sử hiếm có, khi trục phát xít quốc tế tan vỡ trước sự tấn công vũ bão của Hồng quân Liên Xô và lực lượng Đồng minh. Thế nhưng, theo Hiệp ước Potsdam (7/1945), lãnh thổ Việt Nam lại đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội Đồng minh với danh nghĩa các nước giải giáp quân đội Nhật. Không thể chần chừ và chịu thế bất lợi thêm một lần nữa, Việt Nam cần phải tuyên bố độc lập.
Theo dòng lịch sử dân tộc, có thể khẳng định Tuyên ngôn Độc lập thời đại Hồ Chí Minh là sự phát triển và đưa lên một tầm cao mới ý thức độc lập của nhân dân, đất nước ta trong tiến trình dựng nước và giữ nước.
Thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh: trên dặm dài hàng nghìn năm, không giai đoạn nào chúng ta không phải đối đầu với những kẻ thù lớn mạnh hơn gấp bội. Vì vậy, ý thức độc lập của đất nước ta luôn thường trực trên mỗi chặng đường.
Một bản sao của Tuyên ngôn Độc lập
Biết bao thế hệ người Việt Nam không quên được lời thơ thần bất hủ vang vọng đôi bờ sông Như Nguyệt mang hồn thiêng sông núi hơn 900 năm trước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Cũng như không quên áng văn chính luận mẫu mực Nguyễn Trãi đọc giữa Thăng Long thuở Bình Ngô khai quốc - mùa Xuân năm 1428 sau 10 năm “nếm mật nằm gai” (1418 - 1427):
Duy ngã Đại Việt chi quốc
Thực vi văn hiến chi bang
(Như nước Đại Việt ta
Thực là một nước văn hiến)
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư cùng các đại biểu thực hiện nghi thức mở biển tại Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang (Hà Nội) - nơi Bác Hồ khởi thảo Tuyên ngôn Độc lập tại Lễ gắn biển công trình và khai mạc trưng bày triển lãm, ngày 18/8/2025
Và càng phải khắc sâu, ghi lòng tạc dạ lời khẳng định của Hồ Chủ tịch: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!
Rõ ràng, ý thức về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc là dòng chảy liên tục, mạnh mẽ, sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả nghìn năm lịch sử; đến thời đại Hồ Chí Minh, ý thức đó được nâng cao ngang tầm thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm nhìn sáng suốt, xuyên thấu dân tộc và thời đại, đã sử dụng Tuyên ngôn nước Mỹ cũng như Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp một cách đắc địa. Chưa hết, ngoài việc căn cứ vào pháp quyền hiện tại, Hồ Chí Minh còn tìm được những điểm tựa lịch sử quan trọng không kém: “nhân đạo và chính nghĩa”. Với những dòng trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn ngoại quốc kia, không còn nghi ngờ gì nữa, Hồ Chí Minh có ý thức tôn trọng thành quả văn hóa nhân loại - cũng đạt được từ máu và nước mắt; mặt khác Người đặt Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam trong thế bình đẳng với các bản tuyên ngôn khác và còn cả ý này nữa, như nhiều học giả đã chỉ ra: Hồ Chí Minh dùng đòn đánh Gậy ông đập lưng ông. Cũng cần phải nói thêm là: ở bản Tuyên ngôn Độc lập thời đại Hồ Chí Minh, ý thức về độc lập quốc gia trong mối quan hệ bình đẳng quốc tế đã được khẳng định - đó là tài sản tinh thần vô giá mà chúng ta - những người Việt Nam hôm nay phải trân trọng và gìn giữ.
Ở phương diện khác, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là một tất yếu lịch sử của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Thế kỷ XX vừa qua đi, chúng ta đã chứng kiến trên thế giới có những con đường khác nhau để giành độc lập dân tộc nhưng ở Việt Nam, từ thực tế lịch sử, con đường cách mạng vô sản là sự “lựa chọn đúng đắn duy nhất” mà Hồ Chí Minh đã “tìm đường đi cho dân tộc theo đi”. Giữa lòng châu Âu văn minh những năm 1920 của thế kỷ trước, Người từng khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản”. Lựa chọn con đường cứu nước theo chủ nghĩa Mác, cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - xu thế tất yếu của thời đại đã dẫn đến cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 long trời lở đất. Việc ra đời của Tuyên ngôn Độc lập ở Việt Nam trong thời điểm lịch sử “nghìn năm có một” không bao giờ là “ngẫu nhiên” như nhiều học giả phương Tây cố tình không hiểu.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 do Hồ Chủ tịch soạn thảo và đọc ngày 2/9/1945 là cơ sở pháp lý cần thiết và kịp thời cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn có một vai trò, ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng: nó hợp pháp thành quả Cách mạng Tháng Tám - giành chính quyền trong cả nước. Cùng với bản “Tuyên ngôn” kịp thời công bố ấy, Chính phủ ta - do Hồ Chủ tịch đứng đầu - là một chính phủ hợp pháp trước toàn thể nhân dân thế giới, sẽ có đủ tư cách đón tiếp quan quân Đồng minh vào Việt Nam sau đó không lâu, với vị thế của những người làm chủ đất nước. Chỉ chậm một vài ngày thôi, thời cơ này sẽ không bao giờ trở lại.
Như chúng ta đều biết, Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh - nhân vật kiệt xuất nhất, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Người không chỉ soạn thảo, công bố bản Tuyên ngôn kịp thời, chính nghĩa mà còn tổ chức, kiến tạo nên những thành công của chính quyền cách mạng non trẻ, đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Có thể nói ba mươi năm bôn ba hải ngoại, lăn lộn khắp trong phong trào cách mạng sục sôi của thế giới, đã hun đúc nên một bản lĩnh Hồ Chí Minh vững vàng, một tầm nhìn Hồ Chí Minh sáng suốt, làm chỗ dựa tin cậy, cần thiết cho cả một dân tộc. Đóng góp, cống hiến của Hồ Chí Minh trong giai đoạn Tổng khởi nghĩa - giành chính quyền, rồi tổ chức công bố Tuyên ngôn Độc lập cho sự ra đời của nước Việt Nam mới là vô cùng to lớn.
Đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư cùng các đại biểu tham quan trưng bày tại di tích 48 Hàng Ngang (18/8/2025) - Ảnh: Thanh Tùng /TTXVN
Cùng cần phải khẳng định thêm rằng Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, hàm súc, nhiều dư ba và có kết cấu vô cùng chặt chẽ. Lý lẽ hùng hồn, lập luận đanh thép, xuất phát từ chính nghĩa cách mạng thế giới và thực tiễn Việt Nam nên rất tin cậy, chân xác. Bản Tuyên ngôn có cơ sở pháp quyền đúng đắn, có điểm tựa lịch sử quan trọng, có đạo lý Việt Nam, quyết tâm sắt đá, máu và nước mắt phía sau mỗi con chữ. Đối lập ở cực phía bên kia, là một kẻ thù thâm độc, tàn bạo, tráo trở, không còn “chỗ dựa” để có thể tiếp tục quay lại thống trị nhân dân ta một lần nữa. Tội ác của chúng còn đậm đặc và “dày” hơn Bản án chế độ thực dân Pháp ngày nào: Hai triệu đồng bào ta chết đói, hai lần dâng Đông Dương cho Nhật… Nghệ thuật tương phản, cách thức sử dụng điệp từ cùng nội dung thuyết phục, đúng thời cơ đã làm nên tầm vóc dân tộc và thời đại của bản Tuyên ngôn: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy…
Kế thừa những luận điểm chính nghĩa và tiến bộ trên mỗi chặng đường phát triển của lịch sử loài người, với Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đem lại điều “suy rộng ra” vô cùng vĩ đại: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Một sự suy luận vô cùng hợp lý và logic. Đã có quyền tự do cá nhân, sao lại không có quyền tự do dân tộc, quyền độc lập, tự quyết? Dân tộc tự do, bình đẳng, độc lập, tự quyết mới là đỉnh cao nhất của nhân quyền, mới có điều kiện để phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” sau này. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập quốc gia và dân tộc tự quyết được thể hiện trong bản Tuyên ngôn đã là những phần cơ bản nhất của Hiến chương Liên hợp quốc. 80 năm sau ngày Hồ Chủ tịch đọc văn kiện lịch sử vô giá ấy - ở thời hiện tại, khi còn không ít quốc gia - dân tộc trên hành tinh “loay hoay” kiếm tìm những quyền cơ bản, càng thấy cảm phục tài trí của Người.
Không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - được coi là Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, với việc đọc Tuyên ngôn Độc lập trên quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt những nền móng, cơ sở đầu tiên cho một bản Hiến pháp của nhà nước Việt Nam mới. Nếu làm một bảng thống kê, so sánh, đối chiếu về nội dung, chữ nghĩa, tư tưởng… giữa Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Việt Nam năm 1946, chúng ta sẽ thấy: Hiến pháp đã tiếp thu những tinh thần cơ bản nhất của Tuyên ngôn, khẳng định giá trị và các quyền mà Tuyên ngôn ghi nhận (Độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ vua quan). Xin nhớ rằng: Độc lập - Chính quyền - Hiến pháp là những điều thiết cốt của bất kỳ một quốc gia tự chủ nào thời hiện đại. Nhanh chóng giành chính quyền, tuyên bố độc lập rồi bầu cử và soạn thảo Hiến pháp… cho chúng ta thấy một nhãn quan chính trị nhạy bén, thông tuệ, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tuyên ngôn” khẳng định nước Việt Nam độc lập, chủ quyền thì theo đó sẽ có Hiến pháp - sản phẩm thời văn minh, dân chủ - nơi quyền lực thuộc về nhân dân, có sự tham gia của nhân dân vào việc thành lập các cơ quan nhà nước. Cho nên Tuyên ngôn Độc lập là điều kiện cần thiết để Hiến pháp ra đời, khẳng định một lần nữa chủ quyền đất nước. Đấy là điều không thể có ở thời quân chủ Việt Nam - chẳng thể đòi hỏi sau những thời điểm công bố “Nam quốc sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”.
Tại một căn phòng ở gác 2 của ngôi nhà này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ảnh: Thanh Tùng - TTXVN
Tất cả lý lẽ, lập luận của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đều nhằm khẳng định gìn giữ điều thiêng liêng đó - ở thời điểm chống Mỹ cứu nước vẫn là tư tưởng lớn xuyên suốt: Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
Đó cũng là quyết tâm, ý chí sắt đá của dân tộc ta. Nó giải thích tại sao sau một thời kỳ tạm hòa hoãn không lâu, cả dân tộc ta dù “đói nghèo trong rơm rạ” vẫn quyết tâm bước vào khói lửa của cuộc kháng chiến trường kỳ, chỉ sau đó hơn một năm (19/12/1946), chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ (Hồ Chí Minh).
80 năm đã qua đi, kể từ ngày Tuyên ngôn Độc lập ra mắt quốc dân và có một đời sống, một vị trí thật đặc biệt trong tinh thần, tình cảm mỗi người Việt Nam. Tùy theo yêu cầu, lĩnh vực công tác, có thể có những điểm nhìn, cách tiếp cận khác nhau nhưng chỉ với những gì chúng tôi trình bày ở trên cũng đủ để khẳng định: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là văn kiện vô giá, rất quan trọng của thời đại chúng ta. Không phải ngẫu nhiên mà GS Đinh Gia Khánh, khi giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng biên tập bộ Tổng tập Văn học Việt Nam - giới thiệu rất nhiều tác giả, tác phẩm của nghìn năm văn học viết dân tộc đã chọn tác phẩm mở đầu là bài thơ Nam quốc sơn hà và tác phẩm kết thúc là áng văn chính luận mẫu mực Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
PHẠM VÕ THANH HÀ - HÀ ĐAN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 617, tháng 8-2025