Trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ trở thành xu hướng phát triển chủ đạo của xã hội tương lai, việc xử lý dữ liệu lớn trên nền tảng trí tuệ nhân tạo cũng mang tính hệ thống trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công nghiệp văn hóa (CNVH). Điều này đặt ra những vấn đề liên quan đến công tác quản lý trong lĩnh vực này để đáp ứng xu thế vận động có tính tất yếu.
Khách nước ngoài sử dụng thuyết minh qua hệ thống tự động tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam - Ảnh: baotangphunu.org.vn
1. CNVH trong kỷ nguyên 4.0
Theo quan điểm của UNESCO (2007), thuật ngữ “các ngành công nghiệp văn hóa” được hiểu là: “Các ngành sản xuất ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông qua việc khai thác những giá trị văn hóa và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ dựa vào tri thức (kể cả những giá trị văn hóa hiện đại và truyền thống). Điểm chung nhất của các ngành công nghiệp văn hóa là sử dụng tính sáng tạo, tri thức văn hóa và bản quyền trí tuệ để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ, cũng như nó mang giá trị văn hóa”. Cơ cấu ngành CNVH được UNESCO giới hạn ở 11 lĩnh vực gồm: quảng cáo; kiến trúc; giải trí kỹ thuật số; mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ; thiết kế mỹ thuật: phim ảnh và video; in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biêu diễn; phát thanh truyền hình; phần mềm (mang nội dung văn hóa) (1). CNVH có sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa, nghệ thuật, kinh tế và công nghệ. Nhiều nước trên thế giới đã có những chiến lược phát triển CNVH, góp phần phát triển kinh tế, mang đặc trưng, thế mạnh của riêng mình, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.
Ở Việt Nam, thuật ngữ CNVH xuất hiện đầu tiên vào năm 2014, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khóa XI. Theo đó, phát triển CNVH được Đảng đề ra là 1 trong 5 nhiệm vụ trọng tâm cho sự phát triển bền vững đất nước. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây là chiến lược quốc gia về phát triển các ngành CNVH, có tính tổng thể, bao trùm lên 12 ngành CNVH. Các mục tiêu trong Chiến lược đã tác động trực tiếp đến việc hình thành thị trường văn hóa với các sản phẩm, dịch vụ văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Việc phát triển các ngành CNVH trở thành ngành kinh tế dịch vụ quan trọng sẽ không chỉ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm mà còn đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân, góp phần xuất khẩu văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.
Trong kỷ nguyên 4.0, dữ liệu mọi mặt của đời sống trên thế giới ngày càng tăng với tốc độ nhanh chóng. AI được xem là bộ công cụ có khả năng xử lý lượng dữ liệu khổng lồ này, trích xuất các mẫu cơ bản và tạo ra dự đoán về các sự kiện và hành vi trong tương lai. Năng lực của những công cụ này đã tạo nên một bước tiến quan trọng và khả năng ứng dụng to lớn trong các lĩnh vực nghiên cứu cho đến các dịch vụ tiêu dùng được hàng tỷ người sử dụng. Trong lĩnh vực CNVH, AI được xem là công cụ hữu hiệu trong phân loại hình ảnh, tạo âm thanh hoặc văn bản, với hiệu suất tốt nhất. Theo đó, tác động của AI trong ngành CNVH sâu rộng trong nhiều loại hình như hội họa, kiến trúc, âm nhạc, điện ảnh, khiêu vũ và nghệ thuật biểu diễn. Sự thay đổi từ AI đến các sản phẩm văn hóa có tác động rất lớn trong đời sống văn hóa của người dân, từ quá trình sáng tạo, phát triển, phân phối, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm văn hóa. Ví dụ: một lĩnh vực đang phát triển trong ngành CNVH là các nhà sản xuất trang web và cửa hàng bán hoặc sản xuất tài liệu sáng tạo văn hóa. Trước đây, người xem phim có thể mua các băng video, đĩa CD tại cửa hàng nhưng giờ đây, người tiêu dùng có thể xem trên các kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, họ có thể truy cập rất nhiều trang web hiện cung cấp video phát trực tuyến miễn phí hoặc giá thấp về các bộ phim, chương trình truyền hình nổi tiếng. Trong nhiều trường hợp, người tiêu dùng có thể mua các sản phẩm văn hóa trên các không gian mạng thay vì đến trực tiếp tại các hiệu sách, cửa hàng kinh doanh như trước đây. Điều này về cơ bản đã từng bước tác động đến kênh phân phối và làm thay đổi thói quen tiêu dùng sản phẩm văn hóa của người dân. Ở lĩnh vực mỹ thuật, công chúng cũng dần quen với việc xem triển lãm mỹ thuật thông qua ứng dụng “Thuyết minh đa phương tiện” đã được ứng dụng tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đây là ứng dụng đa phương tiện (audio, text, ảnh chất lượng cao) trợ giúp người dùng tham quan trực tuyến hoặc trực tiếp tại bảo tàng. Ứng dụng có những tính năng vượt trội như cho phép xem hình ảnh chất lượng cao của tác phẩm; đọc nội dung bài giới thiệu; xác định chính xác vị trí trưng bày hiện vật; xem sơ đồ hệ thống trưng bày; phân biệt các phòng đã, đang và chưa tham quan bằng màu sắc...
2. Sản phẩm văn hóa chịu tác động của AI trong bối cảnh hiện nay
Thay đổi phương thức sáng tạo và sản xuất sản phẩm văn hóa
Các sản phẩm của ngành CNVH có tính biểu tượng, được xác định bởi yếu tố cốt lõi “giá trị” nên có tính đặc thù khác biệt so với hàng hóa của các ngành công nghiệp khác. Về cơ bản, CNVH hiện thực hóa việc tiêu chuẩn hóa và sản phẩm được sản xuất hàng loạt để hấp dẫn người tiêu dùng và chiếm lĩnh thị trường theo hướng phù hợp theo sở thích của người tiêu dùng. Hay có thể hiểu rằng, sản phẩm của ngành CNVH được kết nối với rộng khắp thông qua việc tiếp thị và quảng cáo, có tác động tạo nên xu thế lựa chọn, hình thành sở thích của công chúng. Nhiều nước trên thế giới đã công nhận CNVH như một trong những trụ cột chính của nền kinh tế sáng tạo, một lĩnh vực quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế. Trong xu thế phát triển của kỷ nguyên 4.0, ngành CNVH ngày càng chịu sự tác động của AI. Sự sáng tạo sản phẩm văn hóa từ AI đã phá vỡ phương thức thiết kế và sản xuất của các sản phẩm văn hóa có tính truyền thống từ góc độ thị trường, trở thành chìa khóa để nâng cao lợi ích kinh tế cũng như khả năng cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa truyền thống. Năm 2016, cuốn tiểu thuyết ngắn được viết bởi AI đã lọt vào vòng thứ hai giải thưởng văn học quốc gia của Nhật Bản. Trên các phần mềm phổ biến như Midjourney và Lensa cho phép người dùng chỉ cần nhập miêu tả hình ảnh họ muốn và công cụ AI sẽ tạo ra sản phẩm chỉ sau vài giây. Năm 2022, sự kiện tác phẩm mỹ thuật Théâtre D’opéra Spatial giành giải Nhất tại cuộc thi mỹ thuật thường niên của Hội chợ Bang Colorado (Hoa Kỳ) gây chấn động giới giới mỹ thuật, bởi đây là tác phẩm tạo nên từ AI được giải thưởng ở một cuộc thi mỹ thuật. Tại Hollywood, kinh đô điện ảnh của Hoa Kỳ, sự gia tăng đột ngột của các nền tảng sáng tạo nội dung hỗ trợ như AI làm gia tăng khoảng cách vốn đã rất lớn giữa các hiệp hội diễn viên, biên kịch với nhiều hãng phim. Sự bất đồng nảy sinh trên quan điểm AI có thể tạo ra sự mô phỏng một diễn viên và công nghệ này đang được cải thiện với tốc độ đáng báo động. Vậy trong vài năm tới, vì sao phải trả tiền cho các nhà biên kịch, diễn viên thực thụ… Tháng 8-2023, Công ty Meta (công ty mẹ của mạng xã hội Facebook) đã cho ra mắt một công cụ hoạt động dựa trên AI có tên AudioCraft hỗ trợ người dùng tạo ra các bản nhạc hoặc âm thanh chỉ từ các yêu cầu bằng văn bản. Trước đó, Công ty Google cũng giới thiệu công cụ AI có khả năng tạo ra âm thanh mang tên MusicLM... Open AI - một công ty phát triển Chat GPT ở Mỹ cũng tạo ra Jukebox có thể sáng tác âm nhạc nhờ học từ hàng triệu bài nhạc thô.
Tăng hiệu quả cho sản phẩm văn hóa
Có thể nhận thấy, công nghệ AI đã có bước “cách mạng hóa” quy trình sản xuất trên nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong đó có CNVH thông qua nâng cao năng suất, hiệu quả và tính linh hoạt bằng các thuật toán máy tính. Ở góc độ tích cực, AI đóng vai trò như một chất xúc tác văn hóa và giúp hệ thống hóa các dữ liệu và nâng cao hiệu quả, chất lượng của các sản phẩm cũng như tăng cường khả năng sáng tạo của con người trong các lĩnh vực như truyền thông, tạo nội dung, sản phẩm có tính hàng loạt… Ví dụ, trong điện ảnh, AI có thể làm nhiệm vụ lồng tiếng khi chỉ cần một đoạn ghi âm giọng nói của diễn viên, phần mềm có thể tạo ra các câu thoại y hệt với bất kỳ nội dung nào được nhập vào, giúp việc hợp lý hóa, tiết kiệm thời gian, tối ưu hóa hoạt động khi loại bỏ những tác vụ lặp đi lặp lại. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho mọi người bằng cách cho phép họ làm được nhiều việc hơn, được tập trung vào công việc đòi hỏi sự sáng tạo và cảm xúc. Đồng thời, AI cũng giúp chúng ta đưa ra quyết định tốt hơn bằng cách cung cấp, phân tích dữ liệu chính xác và kịp thời theo cách sử dụng các hướng dẫn bằng ngôn ngữ đơn giản mà không cần được đào tạo chuyên môn sâu. Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, ở Anh AI cũng được sử dụng kết hợp tạo ra các nghệ sĩ ảo trình diễn tạo ra màn song ca đầy mê hoặc, xóa nhòa ranh giới giữa con người và máy móc. Các biên đạo múa cũng sử dụng thuật toán Al để tạo ra các kiểu chuyển động mới và sáng tạo cho các vũ công của họ thách thức các quan niệm truyền thống về khiêu vũ.
Sự phát triển công nghệ không ngừng đã và đang tạo ra những cơ hội, khả năng và thách thức mới cho ngành CNVH về phương thức hoạt động cũng như đặt ra những vấn đề trong công tác quản lý lĩnh vực này. AI phát triển mang đến khả năng sáng tạo sản phẩm văn hóa dễ dàng hơn trên nền tảng dữ liệu lớn (big data), khi đã số hóa các nội dung văn hóa và không bị giới hạn bởi quan điểm, xu hướng thẩm mỹ của một vài cá nhân. Thông qua AI, cơ sở dữ liệu về các yếu tố văn hóa, biểu tượng, ngôn ngữ trong một quốc gia hay đa quốc gia được thiết lập nhằm tìm ra điểm đột phá trong chuyển biến và tạo nên sản phẩm văn hóa theo hình thức mới. Khi phát triển các sản phẩm mới về sáng tạo văn hóa, AI có thể giúp mở rộng quan điểm phát triển sản phẩm và tích hợp nhiều yếu tố đổi mới hơn vào đó một cách linh hoạt. Trong thiết kế những đồ vật cụ thể, hình dạng, màu sắc… cũng có thể được tích hợp để tạo nên những sản phẩm có hình thức biểu hiện mới.
Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, AI cũng có những bất lợi như việc đầu tư phát triển, thực hiện tốn kém. Các sản phẩm văn hóa được làm từ AI thiếu cảm xúc và sự sáng tạo. AI cũng không thể sản xuất các chương trình truyền hình, phim điện ảnh gần với những gì khán giả mong đợi và có thể không bao giờ là sự thay thế để thỏa mãn nhu cầu thực sự của con người bởi việc sử dụng dữ liệu đã được sáng tạo sẽ khó có thể tạo ra thứ gì đó khiến khán giả xúc động.
3. Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý sản phẩm văn hóa trong bối cảnh hiện nay
Những sản phẩm văn hóa này đã đem lại những cơ hội lớn về khả năng giảm thiểu chi phí sản xuất, góp phần tạo ra các kênh phân phối, quảng bá sản phẩm văn hóa theo hình thức mới. Điều này cũng đặt ra trong lĩnh vực quản lý văn hóa ở Việt Nam một số vấn đề có tính trọng tâm sau:
Thứ nhất, khi AI tham gia quá trình tạo nên sản phẩm mỹ thuật thì không chỉ đơn thuần là chỉ là “lắp ghép” dữ liệu đã có để tạo nên một sản phẩm theo yêu cầu. AI tái lập nên một sản phẩm mà ở đó hội tụ hình ảnh đúng ý đồ những gì bạn đang yêu cầu từ màu sắc, hình dạng, tỷ lệ, kết cấu, bề mặt chất liệu… hay có thể hiểu đây là một sản phẩm hoàn toàn mới và rất khó có thể phân giải xem các dữ liệu gốc tạo nên sản phẩm này được lấy từ đâu, ngay kể cả với người sử dụng phần mềm trên nền tảng AI. Do đó, việc phân định quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo nên sẽ là một thách thức.
Thứ hai, tính nguyên bản và mục đích của sáng tạo sản phẩm văn hóa trên nền tảng AI chưa được xác lập thì rất khó trả lời cho việc ai là người giữ bản quyền và chịu trách nhiệm đối với một tác phẩm nghệ thuật AI? Thiết bị/ phần mềm, người tạo nên ý tưởng hay người cung cấp các dữ liệu cơ sở để tạo nên sản phẩm. Nếu không xác định được đúng điều này thì sẽ không thể có cơ chế quản lý, xử lý sai phạm liên quan đến sản phẩm văn hóa được tạo nên từ AI.
Thứ ba, việc lựa chọn các sản phẩm văn hóa từ AI sẽ ảnh hưởng đến thói quen, hành vi tiêu dùng, thị hiếu thẩm mỹ… của công chúng và về lâu dài cũng ảnh hưởng đến việc xây dựng các chính sách tương ứng và việc thực hiện việc ra quyết định liên quan của cơ quan quản lý văn hóa.
Thứ tư, việc nghiên cứu trong nước về phát triển CNVH, từ lý thuyết đến thực tiễn liên quan đến sự ảnh hưởng của AI đối với CNVH chưa có nhiều. Điều này có những hạn chế nhất định từ lý luận cho đến thực tiễn khi đưa ra những nhận định liên quan đến các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển của CNVH...
Thứ năm, các nghiên cứu phân tích tác động của AI đến CNVH và các yếu tố tác động đến sản phẩm văn hóa chưa thấy được sự tất yếu, không thể thay đổi theo xu thế chung của thời đại nên chưa đưa ra được các dự báo có tính chiến lược, giúp xây dựng chính sách liên quan được phù hợp.
Thứ sáu, quyền riêng tư cá nhân bị ảnh hưởng khi AI có khả năng tự động theo dõi và thu thập dữ liệu người dùng, thậm chí người bị vi phạm còn không hề hay biết. Các công nghệ AI mà chúng ta sử dụng hằng ngày như nhận diện khuôn mặt, sinh trắc vân tay đều có thể được sử dụng để thu thập thông tin cá nhân và được đưa vào khai thác sử dụng cho các mục đích khác, tạo nên các sản phẩm có tính phát sinh, trong đó có những sản phẩm dựa trên thông tin bị đánh cắp có nguy cơ gây hại cho cộng đồng hoặc ở cấp độ cá nhân.
Thứ bảy, việc xử lý dữ liệu trên nền tảng dữ liệu lớn nên AI nhiều khi tạo nên những sản phẩm có tính kỳ thị về sắc tộc, dân tộc thiểu số, giới, người khuyết tật, cộng đồng LGBT (nhóm người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính, chuyển giới…)...
4. Một số giải pháp đặt ra trong công tác quản lý sản phẩm văn hóa được tạo ra từ AI
Có thể thấy, AI thách thức chuỗi giá trị sáng tạo có tính truyền thống và tạo ra nhiều cách thức phong phú để người dùng có thể tiếp cận sản phẩm văn hóa thông qua nhiều cách thức khác nhau. Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý sản phẩm văn hóa được tạo ra từ AI, cần chú trọng đến:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm giám sát, định hướng các hoạt động sáng tạo từ AI.
Đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa cần thường xuyên cập nhật kiến thức công nghệ để kịp thời đáp ứng xu thế phát triển.
Kiểm tra mức độ phù hợp của sản phẩm văn hóa trên cơ sở tiêu chí, chỉ báo liên quan.
Các đơn vị khai thác AI trong xác lập sản phẩm văn hóa từ AI cần có quy trình quản lý dữ liệu và triển khai sản phẩm trên nền tảng phù hợp theo các quy định pháp luật liên quan.
Việc xác định chủ thể sáng tạo để xác lập quyền tác giả phải rõ ràng và được thể hiện trong quy định và ban hành kèm chế tài xử lý, nếu có sai phạm.
Phát triển các tiêu chí nhằm thúc đẩy sự đổi mới của AI và thiết lập các biện pháp kiểm soát mang tính linh hoạt.
Thường xuyên cập nhật, đánh giá mức độ ảnh hưởng, tác động liên quan đến AI và xác định các nội dung và lĩnh vực cần cập nhật để quản lý hiệu quả.
Tăng cường nghiên cứu về AI đối với ngành CNVH để có nhận thức đúng những ảnh hưởng, tác động của AI nhằm tối ưu hóa chúng bằng cách sử dụng dữ liệu và thuật toán phù hợp trên quy định của pháp luật liên quan.
Như vậy, trước xu thế vận động chung của thời đại, việc kiểm soát AI theo hướng có lợi cho ngành CNVH ở Việt Nam sẽ là một thách thức bởi tốc độ phát triển AI nhanh chóng, trong khi luật pháp, quy định liên quan chỉ được xây dựng từ thực tiễn triển khai và thường đi sau. Tuy nhiên, điều quan trọng trong công tác quản lý văn hóa phải đảm bảo các sản phẩm văn hóa được tạo nên từ AI phù hợp với nền tảng chuẩn mực của xã hội, nên nếu không bắt đầu ngay từ hôm nay sẽ rất khó để kiểm soát và hạn chế hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn từ các sản phẩm văn hóa được tạo nên từ AI.
________________
1. UNESCO, Các ngành công nghiệp văn hóa - Tâm điểm của văn hóa trong tương lai, portal.unesco.org.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Bích Huyền, Đặng Hoài Thu, Các ngành công nghiệp văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014.
2. Nguyễn Thị Kim Liên, Phát triển công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
3. Lương Hồng Quang, Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam - Môi trường thể chế thị trường và sự tham gia, Nxb Thế giới, 2018.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, dangcongsan.vn, 2014.
5. Phạm Hồng Thái, Sự phát triển công nghiệp văn hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
6. Ban Thời sự, Khi AI tham gia sáng tạo nghệ thuật, vtv.vn, 2023.
Ths TRẦN THỤC QUYÊN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 569, tháng 5-2024