Con người Nam Bộ qua tư liệu văn học

Thiên nhiên Nam Bộ với đặc trưng sông nước, miệt vườn là nơi nuôi dưỡng tâm hồn phóng khoáng của con người Nam Bộ. Trong văn học, mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên dù ở giai đoạn nào, bộ phận văn học nào cũng được quan tâm với những phát hiện độc đáo. Bài viết nhận diện con người Nam Bộ trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của vùng Nam Bộ qua tư liệu văn học, bao gồm cả văn học dân gian và văn học viết, đặc biệt là bộ phận văn học dân gian của người Khmer Nam Bộ.

Tính cách người Nam Bộ là sản phẩm tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó, có 3 nhân tố chính là truyền thống văn hóa dân tộc, việc tiếp biến văn hóa giữa các tộc người cũng như việc tiếp biến văn hóa của các tộc người trong vùng với thế giới và bối cảnh tự nhiên - xã hội vùng Nam Bộ. Cội nguồn văn hóa - xã hội là tiền đề hình thành tính cách con người Nam Bộ. Môi trường tự nhiên là nơi nuôi dưỡng tâm hồn phóng khoáng của con người Nam Bộ.

Con người Nam Bộ được tiếp cận từ nhiều phương diện: văn hóa, tâm lý, triết học, nhân học và văn học. Riêng trong văn học, con người Nam Bộ được nhiều nghiên cứu khai thác như: qua thơ văn yêu nước nửa sau TK XIX, trong văn chương du ký Nam Bộ đầu TK XX, trong sáng tác của các nhà văn Nam Bộ tiêu biểu như Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Phi Vân, Nguyễn Ngọc Tư hay trong kịch bản cải lương của Trần Hữu Trang... Từ đó, đặc trưng tính cách con người Nam Bộ trong văn chương được nhận diện một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Chúng ta có thể nhận thấy, hình ảnh con người đạo lý trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh; con người mở đất trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam; con người lưu lạc trong sáng tác Nguyễn Ngọc Tư... Những phẩm chất đó trong văn học được biểu hiện, mang tính trọng nghĩa, tinh thần quả cảm, sáng tạo, giàu hy sinh, có lòng lạc quan, yêu đời, không nguôi khắc khoải về cội nguồn.

Trong văn học dân gian, người Nam Bộ không chỉ xem thiên nhiên là nguồn sống, mà còn là nơi để gửi gắm nỗi niềm. Nếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, những huyền thoại, thần thoại, truyền thuyết lịch sử gắn với cội nguồn dân tộc và các triều đại, các nhân vật lịch sử là những dấu ấn trong văn chương, thì ở Nam Bộ, thế giới tự nhiên vừa quyến rũ, vừa đe dọa là những mẫu đề chính trong truyện cổ và thơ ca dân gian. Đặc trưng văn hóa sông nước của vùng Nam Bộ là sông nước chi phối mạnh mẽ đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người Nam Bộ. Sự hoang sơ, hiểm nguy không ngăn được bước chân Nam tiến của cư dân. Trải qua bao biến thiên lịch sử, tiếp biến nhiều nền văn hóa khác nhau, những thế hệ người mang sứ mệnh mở đất đã đồng thời mang trọng trách kiến tạo bản sắc văn hóa vùng Nam Bộ. Các thế hệ nhà văn Nam Bộ, với tư cách chủ thể tiếp nhận văn hóa, đồng thời là chủ thể sáng tạo, đã lưu giữ trong văn chương những giá trị văn hóa đặc trưng của vùng đất và con người Nam Bộ với nhiều sự độc đáo. Bằng hình tượng và thông qua hình tượng nghệ thuật, văn học đã phản ánh gần như trọn vẹn sự hài hòa giữa con người Nam Bộ với môi trường tự nhiên. Từ đó, những nét riêng của văn hóa Nam Bộ được người đọc cảm nhận sống động, tươi nguyên và cụ thể.

Văn học Nam Bộ gồm có văn chương bình dân truyền khẩu, văn chương chữ Hán, văn chương chữ Nôm và văn chương quốc ngữ. Trong đó, văn học dân gian giữ một vai trò quan trọng. Việc tìm hiểu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên trong văn học dân gian giúp nhận thức đầy đủ hơn về cách thức con người Nam Bộ ứng xử với môi trường tự nhiên. Qua đó, chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về tính cách, diện mạo của văn hóa dân tộc. Văn học dân gian Nam Bộ ra đời, tồn tại trong môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa riêng của Nam Bộ. Trong môi trường đó, những giá trị, vẻ đẹp của văn học dân gian mới được bộc lộ đầy đủ. Điều kiện tự nhiên đặc thù với những cây mắm, cây đước, cây tràm, cây dừa nước; với kênh rạch, chiếc xuồng ba lá và nghề chài lưới, giăng câu chính là nhân tố quan trọng hình thành nên diện mạo văn học dân gian của cộng đồng dân cư nơi đây: Mắm trước, đước sau, tràm theo sát/ Sau hàng dừa nước, mái nhà ai/ Chồng chài, vợ lưới, con câu/ Thằng rể đóng đáy, con dâu ngồi nò.

Vào thời kỳ vùng đất này còn hoang hóa, con người đã phải đấu tranh không ngừng để có thể thích nghi với điều kiện tự nhiên. Chính vì vậy, hình ảnh về những cánh đồng mênh mông nước, những loài cây, loài hoa dại xung quanh đã để lại ấn tượng khó quên trong ký ức của cư dân nơi đây. Một mặt, nó phản ánh quá trình thích nghi, hòa nhập của con người. Mặt khác, nó bộc lộ tình yêu của con người đối với thiên nhiên. Thiên nhiên vừa là đối tượng để con người chinh phục, vừa là người bạn đồng hành, giúp gắn kết tình cảm cộng đồng.

Nếu trong ca dao - dân ca vùng đồng bằng Bắc Bộ, những lan, huệ, trúc, đào, liễu, mận... là những hình ảnh để người phụ nữ gửi gắm tâm sự, liên hệ với số phận mình, thì trong ca dao - dân ca Nam Bộ lại là những bần, dừa, sen, súng… Những hình ảnh này đã trở thành nét riêng, sự độc đáo trong cách tri nhận của cộng đồng cư dân Nam Bộ. Không gian thiên nhiên gần gũi với lao động, sinh hoạt đã đi vào ca dao như một phần trong cuộc đời của người dân Nam Bộ. Nó vừa thể hiện được tấm chân tình, vừa tái hiện cảnh sắc quê hương tươi đẹp. Ở chiều ngược lại, có những hình ảnh biểu trưng trong ca dao - dân ca đã trở thành biểu tượng của vùng đất, văn hóa Nam Bộ: Bướm bay dưới dạ cây bần/ Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau; Không xuồng nên phải lội sông/ Đói lòng nên phải ăn ròng bè môn; Dời chưn bước xuống ghe buôn/ Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.

Con người đã mượn hình ảnh tự nhiên, sông nước, ghe xuồng, tôm, cá, bần… để bày tỏ nỗi lòng, chia sẻ chuyện với chính mình hay chuyện với người. Khi đó, các trạng thái tình cảm khác nhau của nhân vật trữ tình được bộc lộ một cách dễ dàng, gần gũi. Bên cạnh đó, với buổi đầu đến với đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn, màu mỡ nhưng cũng thường xuyên xảy ra ngập lụt, người dân phải đối mặt với những hiểm họa từ sự hoang sơ, khắc nghiệt. Trong thần thoại Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài của người Khmer Nam Bộ, hình ảnh biển nước mênh mông, những hòn đảo nổi lềnh bềnh, mùi đất thơm ngào ngạt gợi lên hình ảnh giồng đất, đặc trưng vùng đất ngập nước, bùn lầy của đồng bằng sông Cửu Long. Văn học dân gian cũng đã lưu giữ cho lịch sử dân tộc những dấu vết của thời mở đất. Nét hoang sơ, dữ dội của thiên nhiên Nam Bộ buổi đầu khai phá hiện lên sinh động trong nhiều bài ca mộc mạc: Rừng thiêng nước độc thú bầy/ Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội đầy như bánh canh; Tháp Mười nước mặn, đồng chua/ Nửa mùa nắng cháy nửa mùa nước dâng; U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường/ Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua; Cà Mau khỉ khọt trên bưng/ Dưới sông sấu lội trên rừng cọp um.

Để tồn tại và phát triển trong điều kiện ấy, các tộc người ở đây đã phải tích lũy cho mình vốn kinh nghiệm phong phú trong cách ứng xử giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội. Trong tục ngữ Khmer Nam Bộ, hiện tượng mưa xuất hiện nhiều. Đặc trưng này được lý giải từ vai trò quan trọng của mưa đối với nền sản xuất nông nghiệp và địa hình cư trú của người Khmer Nam Bộ: Làm ruộng kịp lúc có mưa, cố hát cho kịp lòng khao khát; Hứng theo trời gầm, mừng theo mưa; Chó sủa chưa bao giờ cắn, trời gầm ầm ầm chưa bao giờ mưa. Bên cạnh đó, từ xa xưa người Khmer Nam Bộ đã biết trồng lúa nước. Vì hoạt động sản xuất này phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên từ đó, những hình ảnh của tự nhiên đã đi vào văn học dân gian Khmer Nam Bộ như một điều tất yếu, nó thể hiện quan niệm, sự hiểu biết của người nông dân Khmer Nam Bộ về thế giới tự nhiên: Gạo là hạt ngọc của ta/ Trấu là vàng bạc, nàng là gái ngoan. Ngoài ra, các truyền thuyết của người Khmer Nam Bộ như Ao Bà Om, Bồ Piêl diệt cá sấu, Pôpitxnôka, Sự tích chùa Coh-Đôn (chùa Đảo Dừa), Sự tích Giồng Lức… đã phản ánh cuộc đấu tranh bền bỉ và sức sáng tạo không ngừng, cũng như thể hiện thái độ ứng xử với môi trường tự nhiên Nam Bộ qua việc chế tác nông cụ, xây dựng nhà cửa, chùa tháp.

Con người đến Tây Nam Bộ khai mở một vùng đất, tác động vào tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của con người. Trong quá trình đó, con người với tự nhiên gắn bó với nhau hài hòa, mật thiết. Sự nương nhau, hòa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển là đặc điểm nổi bật của tự nhiên và con người trong văn học dân gian Nam Bộ. Bởi vậy, tuy thiên nhiên Tây Nam Bộ thật lạ lùng, khắc nghiệt, nhưng phần ưu đãi dành cho người đi tìm cuộc sống mới cũng thật hấp dẫn: Hết gạo thì có Đồng Nai/ Hết củi thì có Tân Sài chở vô/ Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai/ Ai về xin nhớ cho ai theo cùng/ Cám ơn hạt lúa nàng co/ Nợ nần trả hết, lại no tấm lòng/ Ai ơi về miệt Tháp Mười/ Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn/ Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng mặc tình cá đua.

Sự giàu có sản vật tự nhiên với nét hoang sơ của môi trường vừa là thử thách, vừa vỗ về lòng can đảm, sự quyết tâm của những con người thật yếu đuối, nhỏ bé trước tự nhiên. Chính trong môi trường đó đã hình thành tính phóng khoáng, tự do của con người Nam Bộ. Tính chất phóng khoáng, tự do của con người Nam Bộ được biểu hiện đa dạng qua lối sống không chịu sự gò bó, trói buộc bởi những điều vụn vặt. Họ sống vị tha, bao dung, không quan tâm đến chuyện được mất, hơn thua. Ngoài ra, đó còn là lối sống giản dị, rộng rãi, dễ tha thứ, không câu nệ, không định kiến. Trong Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, các tác giả nhận xét: càng đi về phương Nam, chất “phong kiến” nhạt dần, thay vào đó là tinh thần dân chủ, bình đẳng thể hiện ngay trong đời sống cộng đồng làng xã và gia đình; đất nước ta càng về phương Nam càng là đất mở đường, đất của những người nổi dậy… Con người tới đây là con người liều, ngang tàng, nghĩa khí, coi nhẹ tính mạng, xem tiền tài như rơm rác, lấy nghĩa khí là trọng (1). Từ bỏ cố hương, những lưu dân tiến về phía trước, dù nơi đó có vất vả, hiểm nguy, nhưng chắc chắn một chân trời mới sẽ mở ra với những phận đời cùng cực. Nơi đất mới rộng rãi, sản vật dồi dào, cùng tâm thức tha hương cô độc cần sự chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, người dân Nam Bộ không cần bon chen, sự gò bó, cứng nhắc, hẹp hòi bỏ lại phía sau để sáng tạo ra một phong cách sống tự do, phóng khoáng, cởi mở và hào hiệp hơn. Một đức tính nổi bật khác của cư dân Nam Bộ là lòng hiếu khách được biểu hiện một cách tự nhiên, coi khách như người nhà, không hề có chút khách sáo, toan tính: Anh hỏi thì em xin trả lời nè / Gái Bến Tre hiền lành chất phác/ Hiếu khách đậm đà dạt dào tình thâm/ Chọn người kết nghĩa trăm năm/ Giàu sang vô nghĩa chán nhàm ai ơi.

Người Nam Bộ chọn lựa lối sống bộc trực, thẳng thắn. Thái độ sống dứt khoát. Tính bộc trực và không ăn nói vòng vo trở thành nét tính cách riêng của cư dân vùng Nam Bộ. Ngay cả trong việc biểu lộ tình cảm, trai gái Nam Bộ thể hiện tình cảm của mình một cách sôi nổi, mãnh liệt, rõ ràng và dứt khoát: Anh thương em thì thương cho chắc/ Có bỏ thì bỏ cho luôn/ Đừng làm theo thói ghe buôn/ Nay đi mai ở thêm buồn dạ em.

Tinh thần nghĩa khí hào hiệp của người Nam Bộ còn được biểu hiện qua lối sống ngang tàng, tự do, phóng túng. Đó là tính cách của những con người dám sống hết mình vì lẽ phải, gia đình, tình yêu. Họ không thích lối sống luồn cúi, không sợ uy quyền: Trời sanh cây cứng lá dai/ Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều/ Cầu cao, ván yếu, bước rung/ Anh thương em thì thương đại, ngại ngùng thì đừng thương.

Người dân Nam Bộ ghét thói lợi dụng quyền thế để lấn át kẻ yếu, kẻ thất thế. Với họ, người có tinh thần đạo nghĩa là người biết ăn ở thủy chung, kết giao không toan tính, dám liều thân giúp người: Tiền tài như phấn thổ/ Nghĩa trọng tợ thiên kim/ Đứt dây nên gỗ mới chìm/ Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi.

Những đức tính trên được hình thành từ lịch sử hình thành cộng đồng các dân tộc ở Nam Bộ. Do thiết chế xã hội lỏng lẻo, thành phần cư dân đa dạng nên yêu cầu tạo dựng một nền tảng đạo đức là rất cần thiết. Người Nam Bộ thường lấy “đạo nghĩa” làm phương châm sống và hành động, họ không khuất phục trước cường quyền, dám đứng lên dẹp bất công, bênh vực người yếu đuối, thế cô, sẵn sàng bao bọc kẻ thất cơ lỡ vận. Tinh thần ấy luôn được phát huy dù trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào. Quá trình lao động, cải tạo thiên nhiên của những lưu dân người Việt và các tộc người cùng chung sống đã làm nên vùng đất Nam Bộ màu mỡ, phát triển như ngày nay. Ở chiều ngược lại, mảnh đất này cũng góp phần tạo nên tính cách con người nơi đây. Thiên nhiên thoáng rộng, bao la khiến người ta dễ dàng trút mọi ưu phiền, quên mình vì nhau để sinh cơ lập nghiệp và ghi dấu ấn sâu đậm trong tâm thức những người đi mở đất, rồi truyền đời qua những bài dân ca ngọt ngào, sâu lắng. Ở đấy, con người Nam Bộ được xây dựng vừa chân phương, vừa hình tượng; mãi là những bài ca đẹp về con người, vùng đất phía Nam của đất nước.

Cùng với văn học dân gian, trong văn học viết, cảm thức về tự nhiên Nam Bộ là những hoang sơ của ngày đầu khai phá, nỗi lo sinh kế, thú dữ rình rập, những bài học kinh nghiệm mà nhân dân đã đúc kết từ quá trình chung sống lâu dài, gắn bó với tự nhiên. Đồng thời, đó còn là những trăn trở về vấn nạn môi trường, sự giảm sút của tài nguyên. Dấu vết của các vấn đề sinh thái tự nhiên đã có mặt trong các sáng tác của Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Ngọc Tư. Nói về những tác phẩm mang đậm dấu ấn con người và thiên nhiên Nam Bộ thời khẩn hoang, chúng ta có thể kể đến Sơn Nam. Đó là một trong những nhà văn của buổi đầu mở đất, của người khách lữ hành đi đến cùng trời cuối đất vùng Nam Bộ, dang rộng tay ôm lấy cái mênh mông vô tận của miền Hậu Giang, cái thâm u, hoang dã của vùng U Minh. Từ truyện ngắn, truyện dài đến ký của Sơn Nam đều đầy sắc màu với cảnh trời nước mênh mông, cỏ cây Nam Bộ. Mỗi câu chuyện trong sáng tác của ông là một bức tranh tả thực về thiên nhiên làng quê màu mỡ, tốt tươi quanh năm, hay những sản vật phong phú của vùng đất gắn với dòng sông, kênh rạch, với mùa nước nổi vốn là đặc trưng của vùng Nam Bộ (Biển cỏ miền Tây, Hương quê). Con người sống giữa thiên nhiên, tận dụng sản vật tự nhiên để sống, sinh hoạt và phát triển kinh tế. Họ hiểu tự nhiên như hiểu chính con người mình. Điều này tạo nên hệ tri thức dân gian góp vào kho tàng văn hóa vùng những giá trị độc đáo. Nhà văn Đoàn Giỏi với Những chuyện lạ về cá, Tê giác giữa ngàn xanh, Rừng đêm xào xạc và đặc biệt là Đất rừng phương Nam, đã cho thấy mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tuy nhiên, những lần “gợn sóng” của văn chương phương Nam xoay quanh các tác phẩm Con chó và vụ ly hôn của Dạ Ngân, Thị trấn không đèn của Trầm Hương và Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư gợi thêm những suy nghĩ, những khám phá về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới. Chính những cái không bình lặng của văn chương phương Nam đương đại đã phần nào phản ánh những biến đổi trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên ở Nam Bộ trước sự biến đổi của khí hậu, tài nguyên đất, nước, hệ sinh thái thực vật, động vật. Với tâm thức về một vùng đất đai màu mỡ, sản vật tự nhiên sẵn có, con người không khỏi giật mình với những nguy cơ xâm thực của nước biển, đất đai nhiễm mặn, nhiễm phèn, hiện tượng hạn hán, xoáy mòn, lốc xoáy thường xuyên diễn ra hằng năm. Nguyễn Ngọc Tư coi nước là yếu tố quan trọng nhất cấu thành sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Nước trong sáng tác của nhà văn thật nhiều trăn trở: “dừng chân bên bờ sông lớn mênh mang, mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng”, hay: “Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát (…), đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi thu hẹp dần” (Cánh đồng bất tận). Trăn trở này được chính nhà văn lý giải: Con người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục, hủy hoại nó, còn thiên nhiên trả thù bằng cách: Nó biến mất (Khói trời lộng lẫy). Quá trình chung sống hài hòa giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ tất yếu, nương tựa nhau cùng sinh tồn và phát triển. Những yêu thương gần gũi, trăn trở về thực trạng dần mất đi sự tôn trọng của con người với các thành tố tự nhiên đầy ắp trên các trang văn thể hiện trách nhiệm, tình yêu của người cầm bút với vùng đất Nam Bộ.

Từ muôn đời, thiên nhiên luôn là nguồn an ủi, người bạn lớn của con người. Đến với Nam Bộ, thiên nhiên dạt dào, dịu hiền như dòng sữa mẹ nuôi lớn ước mơ, tâm hồn và tầm vóc con người. Mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên trong văn học dù ở giai đoạn nào, bộ phận văn học nào cũng được quan tâm với những phát hiện độc đáo. Hành trình khám phá con người, tự nhiên Nam Bộ qua văn học cũng là hành trình trở lại cội nguồn văn hóa lịch sử. Trong đó, thông điệp từ các hình tượng nghệ thuật được nhà văn gửi gắm là không tách rời tự nhiên - văn hóa - con người để hướng đến sự phát triển bền vững, sự lựa chọn một lối sống thông minh, phù hợp với xã hội hiện tại và tương lai.

_______________________

1. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.68.

Tài liệu tham khảo

1. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, 2004.

2. Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, 2005.

3. Nguyễn Văn Đông, Tính trọng nghĩa của người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP.HCM, số 23, 2010, tr.33-45.

4. Nguyễn Văn Hầu, Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ, tập 1, Nxb Trẻ, 2005.

5. Phạm Thị Thu Thủy, Con người Nam Bộ trong sáng tác văn xuôi của Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Nguyễn Ngọc Tư, Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2017.

6. Phạm Thị Thu Thủy, Con người Nam Bộ trên hành trình mở đất và giữ đất trong sáng tác của Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế, tập 4, 2016, tr.37-49.

7. Sơn Nam, Biển cỏ miền Tây và Hình bóng cũ, Nxb Trẻ, 2006.

8. Sơn Nam, Hương quê, Nxb Trẻ, 2022.

9. Thạch Thảo, Nghĩ về “tam công” thời mở đất, baocantho.com.vn, 29-11-2008.

PGS, TS PHẠM TIẾT KHÁNH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 500, tháng 6-2022

;