Đã gần 600 năm kể từ khi nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo vây thành, diệt viện, làm nên chiến thắng Xương Giang lẫy lừng. Những chứng tích về cuộc chiến vẫn muôn thuở còn truyền không chỉ qua các trang sử xanh, áng thơ ca mà còn nhiều dấu tích vật thể. Hôm nay, trên mảnh đất thành cổ ấy như vẫn nghe vang vọng đâu đây âm hưởng hào hùng của một thuở binh đao, khói lửa. Thật may thay, Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt chiến thắng Xương Giang đã được tôn tạo xứng tầm, là nơi để lớp lớp thế hệ ôn lại những trang sử vẻ vang của dân tộc trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm.
Lưu danh muôn thuở
Chiến thắng Xương Giang là biểu tượng cao đẹp của tinh thần “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”, “Đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Chiến công ấy đã góp phần quan trọng lật đổ ách thống trị của nhà Minh, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam còn ghi danh một ngôi thành cổ với những chiến công oanh liệt của quân và dân Đại Việt do Lê Lợi lãnh đạo đánh quân xâm lược phương Bắc, đó là thành Xương Giang (thành phố Bắc Giang). Đây là thành trì có vị trí chiến lược quan trọng, cách sông Thương 3km, nơi án ngữ toàn vùng Đông Bắc đất nước và che chở thành Đông Quan (Hà Nội).
Thành Xương Giang do nhà Minh lập ra năm 1420. Toàn bộ khu vực này rộng 26ha, chiều cao thành từ 4 - 5m, với các cửa Bắc, Nam, Đông, Tây, chân thành xây bằng đá hộc, gạch vồ, tường thành đắp đất dày, bề mặt thành rộng 6 - 7m. Lịch sử ghi lại, đây là nơi diễn ra trận công thành oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn ngày 28-9-1427 và trận diệt viện binh oanh liệt ngày 3-11-1427, đập tan hơn 7 vạn quân Minh.
Ngược dòng lịch sử, từ cuối năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành vây hãm thành Xương Giang, tướng Trần Nguyên Hãn được bổ sung để chỉ huy các đợt công thành. Ông đã cho đào công sự từ các khu rừng lân cận, đào hầm ngầm từ ngoài vào trong thành, rồi tiến hành nội công ngoại kích với sự phối hợp của đám quân đã lọt được vào nội thành giặc. Đến ngày 28-9-1427, sau hơn 9 tháng vây hãm, thành Xương Giang bị hạ trước khi viện binh của giặc Minh kéo vào nước ta 10 ngày. Từ Đông Quan, tướng giặc là Hoàng Phúc và Thôi Tụ vội vàng thu thập quân lương tiến về Xương Giang trong khi chưa biết thành đã bị hạ. Giữa cánh đồng Xương Giang, giặc Minh bị bao vây chặt bốn bề, tiến thoái lưỡng nan. Ngày 3 tháng 11, quân Lam Sơn tổ chức đợt tổng tấn công. Sau một ngày chiến đấu, nghĩa quân đã giành được thắng lợi giòn giã: bắt sống Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng hơn 3 vạn quân, bao gồm toàn bộ tướng chỉ huy của họ. Kết quả này là một trong những nhân tố quan trọng khiến Vương Thông ở thành Đông Quan phải chấp nhận nghị hòa và không xin phép triều đình Minh đã tự ý rút quân về nước. Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), Vua Lê Lợi cùng Tổng binh Vương Thông mở hội thề ở thành Đông Đô. Ngày 22 tháng 12, quân Minh về nước. Vua cấp cho 500 chiếc thuyền, hai vạn ngựa, lương thảo cùng thổ hải sản nước Đại Việt để biểu thị mong muốn hòa bình và tình hữu hảo.
Điều đặc biệt, sự kiện này đã được Quốc sử quán thời Nguyễn - ghi chép khá cụ thể. Ông Đỗ Tuấn Khoa, Giám đốc Bảo tàng Bắc Giang cho biết, cuối năm 2019, trong đợt khảo sát tư liệu Hán - Nôm tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt), Bảo tàng Bắc Giang phát hiện một số bản khắc tư liệu có nói về trận chiến Chi Lăng - Xương Giang trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư nằm trong khối Mộc bản triều Nguyễn. Cụ thể ở đây là 2 tấm mộc bản, tấm thứ nhất có số hiệu 14421 gồm 2 mặt khắc, chất liệu gỗ thị, khắc nổi mỗi mặt 324 chữ. Tấm thứ hai có số hiệu 14350 gồm 1 mặt khắc, chất liệu gỗ thị. Các tấm mộc bản trên được san khắc dưới thời Nguyễn giai đoạn từ 1802 - 1807.
Về nội dung mộc bản, bản dịch của Nxb Khoa học Xã hội năm 2004 ghi như sau: “Giặc vốn khinh ta, cho là người nước ta nhút nhát, sợ oai giặc đã lâu, nay nghe tin đại quân sang, hẳn là ta rất hoảng sợ. Huống chi lấy mạnh nạt yếu, lấy nhiều lấn ít đó là lẽ thường. Giặc không thể tính được hình thế được thua người của mình, không thể hiểu được cơ vi qua lại của thời của vận. Vả lại, quân đi cứu nguy cấp phải lấy mau chóng làm quý, giặc nhất định phải hành quân gấp vội. Binh pháp có nói: Hành quân 500 dặm mà chỉ vội hám lợi thì sẽ què thượng tướng. Nay Liễu Thăng đến, đường sá xa xôi, quân lính tất mỏi mệt. Ta đem quân nhàn khỏe, đợi đánh quân mỏi mệt, nhất định sẽ thắng”. Bèn sai bọn Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Lãnh, Lê Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 5 thớt voi, bí mật mai phục trước ở ải Chi Lăng để đợi giặc...
Ngày 20, Liễu Thăng đốc suất đại quân đuổi theo. Đến chỗ có mai phục, bọn Sát và Nhân Chú tung hết quân mai phục, bốn mặt đều nổi dậy xung vào đánh giặc. Quân giặc thua to. Quân ta chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên và hơn 1 vạn thủ cấp quân giặc. Ngày 25, vua lại sai Lê Lý và Lê Văn An đem 3 vạn quân tiếp đến ải núi Mã Yên. Bọn Sát và Nhân Chú chỉ huy các quân tung hết binh sĩ ra đánh giặc, chém Bảo Định bá Lương Minh tại trận. Ngày 28, Lý Khánh cũng chết. Thôi Tụ và Hoàng Phúc dẫn quân miễn cưỡng tiến lên. Nhân Chú lại đánh bại bọn chúng, chém được hơn 2 vạn thủ cấp, bắt được lừa ngựa, trâu bò, quân tư khí giới nhiều không kể xiết. Mùa đông, tháng 10, vua sai Lê Lý và Lê Văn An đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt, lại dựng rào lũy ở tả ngạn sông Xương Giang (sông Thương) để ngăn chặn. Bọn Tụ không còn mưu kế gì khác, đành phải đắp lũy giữa cánh đồng để tự vệ. Tụ ngỡ là thành Xương Giang chưa bị phá, dẫn quân định tới đó. Khi tới nơi thì thành Xương Giang đã bị mất, chúng hết cả hy vọng, lại càng kinh hoàng sợ hãi. Gặp lúc trời báo tai biến, mưa to gió lớn, núi rừng gầm thét, người ngựa nhìn nhau không nhích lên được bước nào. Giặc chỉ còn cách đợi đến đêm vắng, bắn súng làm tín hiệu báo cho hai thành Đông Quan và Chí Linh để họ nghe thấy tiếng súng thì ra cứu viện. Nhưng Đông Quan và các thành khác tự cứu còn chưa xong, biết đâu đến chỗ khác. Vua bèn sai các quân thủy, bộ cùng tiến quân bao vây chúng. Lại chia quân chặn hết các ải Mã Yên, Chi Lăng, Pha Lũy, Bàng Quan. Thôi Tụ và Hoàng Phúc muốn tiến cũng không được, muốn lui cũng không xong, bèn giả xin hòa, nhưng âm mưu định chạy vào thành Chí Linh. Vua biết được quỷ kế của chúng, kiên quyết khước từ không cho hòa. Kế đó, sai Trần Hãn chặn đứng đường vận chuyển lương thực của giặc, sai bọn Lê Vấn, Lê Khôi, đem 3 nghìn quân Thiết đột, 4 thớt voi, cùng với bọn Sát, Lý, Nhân Chú, Văn An tấn công bọn giặc. Ngày 15, quân Minh đại bại, ta chém hơn 5 vạn thủ cấp giặc, bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và hơn 3 vạn tên, thu được vũ khí, ngựa chiến, vàng bạc, vải lụa nhiều không kể xiết. Còn những kẻ chạy trốn thì trong khoảng không đến 5 ngày đều bị bọn chăn trâu kiếm củi bắt bằng hết, không sót tên nào”.
Trận đại thắng của nước Nam
Nhà sử học Lê Quý Đôn từng đánh giá về chiến thắng Xương Giang: “Từ triều Trần bắt được Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi cho đến lúc ấy, nước Nam thắng giặc phương Bắc chưa có trận nào lớn như vậy” (theo Đại Việt thông sử). Trong Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi viết: “Gió mây vì thế mà biến sắc/Trời trăng ảm đạm đến lu mờ... Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/Xương Giang, Bình Than máu loang đỏ nước/Ghê gớm thay, sắc phong vân phải đổi/ Thảm đạm thay, ánh nhật nguyệt phải mờ…”. Chiến thắng Xương Giang đã ghi thêm chiến công vào sử vàng dân tộc Việt Nam. Trong bài “Xương Giang phú” Lý Tử Tấn đã viết: “Nơi đây vũ công lừng lẫy/Giúp nên đất nước bình yên/Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có/Mở thái bình cho đất Việt khắp miền/Ấy Xương Giang một sông hình đẹp/Mà dấu thơm muôn thuở còn truyền...”.
Nhằm ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang, khí thế hào hùng và tinh thần thượng võ quyết thắng giặc ngoại xâm, từ năm 1998, lễ hội Xương Giang được tổ chức thường niên vào hai ngày mồng 6, mồng 7 tháng Giêng. Vào ngày này, các nhà sư tổ chức lễ cầu siêu cho linh hồn các tướng sĩ tham gia trận đánh Xương Giang năm xưa và ước vọng đầu năm mới cho quốc thái dân an.
Gần 600 năm đã trôi qua, toàn bộ kiến trúc của thành Xương Giang đã bị đổ nát. Năm 2008, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tổ chức khai quật khảo cổ tại thành Xương Giang. Theo đó, tại khu vực Giếng Phủ, Đồi Ngô (trung tâm thành) và khai quật 3 hố, phát hiện được vật liệu xây dựng như gạch lát nền, gạch ốp trang trí với đường nét tinh xảo, phong phú cùng với ngói. Điều đó đã khẳng định xung quanh khu vực này là những công trình kiến trúc dinh thự của tướng lĩnh quân đội nhà Minh. Tại một số khu vực khác, phát hiện các lớp ngói ken dày, các dải ngói và các hàng trụ móng cùng lớp kè, gia cố ở phần móng. Đã phát hiện 3 di cốt người cổ và hiện vật là gốm men Trung Quốc và Việt Nam có niên đại từ thế kỷ 14-15. Ngoài ra, còn phát hiện vết tích gạo cháy có độ sâu từ 10-15cm và gần 1.600 hiện vật gồm các loại gạch ngói, mảnh vỡ các loại, hiện vật đồ sành gốm men Việt Nam có niên đại thế kỷ 15 và một số vật liệu gia cố kiến trúc như đinh sắt... Qua vết gạo cháy ken dày, mảnh gạch ngói, có thể xác định được công trình kiến trúc này là kho lương của quân đội nhà Minh, ngoài ra còn tìm được một số hiện vật là xương động vật và những viên đạn đá.
Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử, giáo dục truyền thống anh hùng, cách mạng cho các thế hệ, từ năm 2011, trên tổng diện tích 10 ha, TP Bắc Giang đã xây dựng các hạng mục tạo dấu ấn về văn hóa, tâm linh, du lịch như: Đền thờ và công trình phụ trợ, nghi môn, lầu trống, lầu chuông, sân lễ hội, đường giao thông, hệ thống điện, nước, cây xanh, nhà biểu diễn và trưng bày các tác phẩm nghệ thuật... Trong đó, điểm nhấn là đền Xương Giang gồm 3 tòa: Tiền bái, thiêu hương và chính cung. Đây là nơi tôn thờ, ca ngợi đức cao tổ Hoàng đế Lê Lợi và vinh danh những vị hiền thần đã có công trong chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang.
Cùng với đó, nhiều hoạt động giáo dục, văn hóa nghệ thuật, lễ báo công, tuyên dương ý nghĩa cũng được tổ chức tại đây như hoạt động “Em yêu lịch sử” và nhiều chương trình ngoại khóa, hành trình về nguồn do các nhà trường trên địa bàn tỉnh tổ chức. Không phải ngẫu nhiên mà khu di tích chiến thắng Xương Giang ngày càng thu hút nhiều khách thập đến tham quan.
HỒNG NGUYÊN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 474, tháng 9-2021