• Nghệ thuật > Văn học

BIỂU TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Heghen từng nhấn mạnh: “Các dân tộc đã ký thác vào sáng tác nghệ thuật những chiêm ngưỡng nội tâm, những biểu tượng của mình. Nghệ thuật thường là chìa khóa, ở một vài dân tộc, đó là cái chìa khóa duy nhất để tìm hiểu sự khôn ngoan, sáng suốt, tôn giáo của họ” (1). Các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đã xây dựng những biểu tượng nghệ thuật, văn hóa trong những tác phẩm của mình. Hệ thống biểu tượng đó thường thuộc về thiên nhiên, con người. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những biểu tượng thiên nhiên. Tuy nhiên, giữa con người với thiên nhiên luôn có những mối liên hệ không thể tách rời, do đó biểu tượng thiên nhiên suy cho cùng đều mang ý nghĩa văn hóa, phản ánh những vấn đề thuộc về đời sống con người.

TRUYỆN NGẮN VI HỒNG TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

Lịch sử hình thành và phát triển của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại chưa phải là dài (khoảng hơn nửa thế kỷ, bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945). Dòng mạch này liên tục được khơi nguồn, đến nay đã có một đội ngũ sáng tác tương đối hùng mạnh với những thành tựu đáng kể, góp phần khẳng định vị trí vững chắc trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Vi Hồng thuộc lớp thế hệ nhà văn đầu tiên. Đóng góp ở rất nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình, nghiên cứu văn học, kịch…mỗi trang viết của ông đã góp phần làm giàu thêm cảm xúc và kinh nghiệm thẩm mỹ cho mỗi độc giả.

BIỂU TƯỢNG TRONG NGÀN CÁNH HẠC DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC

Thế giới biểu tượng có quá trình hình thành, tồn tại, phát triển đều bắt nguồn từ sự nhận thức của con người về thế giới xung quanh. Y.Kawabata đã vận dụng triết lý phương Đông, phong cách sáng tác giàu cảm xúc để tạo nên những hình tượng nghệ thuật đạt đến tính biểu tượng như là những phương tiện trung tâm, vững chắc, cơ bản nhất để chuyển tải nội dung của toàn bộ tác phẩm. Bên cạnh đó, tác giả đã có những cách tân trong phương thức thể hiện nhằm làm rõ sự chuyển biến mạnh mẽ trong lòng xã hội tư bản Nhật từ cái nhìn chiều sâu của người trong cuộc. Đấy cũng chính là thái độ trân trọng cái đẹp, đề cao vai trò của trực giác trong việc cảm thụ cái đẹp, hướng con người tới những giá trị nhân văn tốt đẹp.

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC HIỆN SINH TRONG MỘT NỖI ĐAU RIÊNG CỦA OE KENZABURO

Oe Kenzaburo sinh ra, lớn lên trong thời đại nước Nhật sau chiến tranh đầy biến động, đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí ông. Nó hằn lên thành những vết thương, những nỗi đau đầy sức ám ảnh trong tác phẩm của ông. Chính sự kiện này đã khơi nguồn cảm hứng để ông viết nên tác phẩm Một nỗi đau riêng. Mặt khác, Oe đặc biệt yêu thích Sartre, ông đã thừa nhận rằng tác phẩm của Sartre, Norman Mailer cùng với những nhà văn Nhật nổi lên ngay sau chiến tranh là ba nguồn ảnh hưởng lớn tới việc sáng tạo nghệ thuật của mình. Chịu nhiều ảnh hưởng từ tinh thần hiện sinh, quan niệm nghệ thuật, phong cách viết tiểu thuyết hiện đại, độc đáo của Sartre, Một nỗi đau riêng đã thể hiện tư tưởng của Oe Kenzaburo với những phạm trù như: cô đơn với tha hóa, lo âu với sợ hãi…

CÁI TÔI BẤT AN, HOÀI NGHI TRONG THƠ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Cái tôi trữ tình trong thơ ca hiện đại chủ nghĩa là cái tôi đa ngã. Nếu cái tôi bản ngã của thơ tiền hiện đại là kết quả của một diễn trình cảm xúc thì cái tôi đa ngã trong thơ hiện đại chủ nghĩa lại trình hiện theo kiểu con người trong con người. Trong con người có nhiều con người cùng hiện diện hay trong cái tôi lớn có nhiều mảnh tôi cùng tồn tại. Chúng không thống nhất mà thường xuyên xung khắc, mâu thuẫn nhau. Đặc điểm này dẫn đến cái tôi trong thơ hiện đại một mặt ý thức sâu sắc về bản thể, mặt khác lại phủ nhận nó, tin tưởng rồi lại bất an, hoài nghi; là cái tôi ý thức lại cũng là cái tôi của tiềm thức, vô thức; cái tôi tự nhân đôi khẳng định mình rồi lại tự phân mảnh phủ định mình... Biểu hiện của cái tôi đa ngã trong thơ văn Việt Nam thuộc hệ hình hiện đại có thể nói là hết sức đa dạng, phức tạp. Song, bài viết này chỉ dừng lại khảo sát kiểu cái tôi bất an, hoài nghi trong sáng tác của một số cây bút thơ văn xuôi tiêu biểu.

NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG EVGHENHI ONEGHIN CỦA A.S.PUSHKIN

Nghệ thuật kể chuyện là một trong những phương diện đặc sắc của tiểu thuyết bằng thơ Evghenhi Oneghin. Mỗi lời kể của nhà thơ đều lôi cuốn sự chú ý của người đọc vào các sự kiện, hiện tượng, nhân vật mà mình đề cập tới, vừa chân thực vừa trữ tình ít ai sánh nổi. Với cách kể chuyện dung dị, mộc mạc, A.S.Pushkin đã đưa tới những điển hình sâu sắc và đầy sức sống tạo nên một diện mạo của nước Nga đầu TK XIX.

MÔTIP ĐỀN ƠN BÁO OÁN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VÀ TRUYỆN NGẮN TRUNG ĐẠI

Trong truyện ngắn, cổ tích Việt Nam trung đại có một môtip cốt truyện khá nổi bật, xuất hiện với tần số tương đối cao, đó là môtip đền ơn báo oán. Môtip cốt truyện này phản ánh quan niệm nhân sinh, lưu giữ tín ngưỡng truyền thống, ghi dấu ứng xử văn hóa của người Việt thông qua những thủ pháp nghệ thuật dân gian hay bác học. Tìm hiểu môtip đền ơn báo oán là một hướng tiếp cận mối quan hệ ảnh hưởng, giao thoa cũng như đặc thù khác biệt giữa hai loại hình, thể tài văn học này; đây là mối quan hệ tất yếu, bền vững góp phần làm nên gương mặt văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới.

BIỂU TƯỢNG TÔN GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA JAMES JOYCE

“Từ biểu tượng có nguồn gốc từ Hy Lạp cổ - symballein, nghĩa là tập hợp, hợp nhất lại. Thời đó có lệ dùng miếng sành vỡ để làm chứng cớ cho một giao kèo hay thỏa thuận: mỗi bên giữ một mảnh để khi tập hợp lại những mảnh vỡ này sẽ khớp khít với nhau như trong trò chơi xếp hình. Những mảnh đó, mỗi mảnh để nhận biết một người có liên quan, được gọi làsymbola, vì thế một biểu tượng không chỉ đại diện cho một cái khác mà còn ám chỉ một cái bị thất lạc, một phần không nhìn thấy được cần đạt được sự hoàn tất hoặc trọn vẹn” (1). Trong văn chương, biểu tượng dùng để chỉ một từ, cụm từ chỉ một đối tượng hay sự việc với chiều hướng biểu đạt một cái gì đó khác, hoặc gợi ra một phạm vi liên quan vượt ra khỏi bản thân nó (2). Như vậy, biểu tượng sẽ chứa đựng trong bản thân nó cả những gì đang hiện hữu thực và cả những gì không nhìn thấy được, chỉ có trong tưởng tượng.

NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1975

Boris Vasilyev từng nói: “Những cuộc chiến tranh có bắt đầu nhưng chẳng có kết thúc. Nó dai dẳng trên nước mắt những người vợ góa, người mẹ, nỗi buồn của trẻ mồ côi, tiếng rên rỉ của người lính bị thương. Những vết thương trên mặt đất biến dần, bãi chiến trường xưa thay bằng những luống cày mới, nhưng rất lâu, rất lâu trong mẩu bánh vẫn lưu lại mùi vị chua của bụi đất, thương đau” (1). Trải qua 30 năm kháng chiến, trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, hình tượng người phụ nữ chiếm vị trí trung tâm, được nhiều tác giả lựa chọn ký thác tư tưởng về chiến tranh.

HIỆN TƯỢNG TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ

Tự thuật là phương thức nhà văn sử dụng để đưa những yếu tố có thật trong cuộc đời cũng như hiện thực đời sống vào trong tác phẩm. Đó là cách thức tác giả tự nói về mình, tự kể chuyện mình nhằm hướng đến sự chia sẻ, cảm thông cũng như khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ. Trong tiểu thuyết của các nữ nhà văn Việt Nam xuất bản đầu TK XXI, hiện tượng tự thuật xuất hiện một cách phổ biến. Điều này có liên quan khá chặt chẽ với sự thức nhận mạnh mẽ những vấn đề liên quan đến ý thức nữ quyền của các nhà văn nữ. Đặc biệt, khuynh hướng này còn góp phần đưa đến việc hình thành một lối viết nữ trong văn chương.

KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ĐƯƠNG ĐẠI

Truyện ngắn nữ đương đại ở Việt Nam thực sự là một hiện tượng độc đáo cần nhiều lời giải mã, đã tạo dựng được một thế giới nghệ thuật mang nét đặc trưng của phái nữ. Trong hệ quy chiếu không gian, thời gian nghệ thuật, những cặp tương quan không gian, những cảm thức về thời gian đã cho thấy một chiều sâu cảm thụ luôn hướng về gia đình, sự ổn định, nguồn cội, thấm đẫm cảm xúc, cảm giác của chủ quan con người. Thời gian nghệ thuật là “ý thức, cảm giác về sự vận động, đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian” (1). Không gian nghệ thuật “biểu hiện mô hình thế giới của con người, thể hiện quan niệm về trật tự thế giới, sự lựa chọn của con người” (2). Được coi là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là một hình tượng nghệ thuật, phản ánh quan niệm của nhà văn về thế giới, con người, cho thấy tư duy, chiều sâu cảm thụ của họ.