• Nghệ thuật > Văn học

Ý CẢNH TRONG THƠ CA VÀ HỘI HỌA TRUYỀN THỐNG TRUNG HOA

“Thi trung hữu họa; họa trung hữu thi” vốn là lời bình của Tô Thức (1037-1101) đối với những tác phẩm thơ và họa của Vương Duy (701-761). Nhưng từ lâu, câu nói này đã được nhiều người hiểu như một lời nhận định khái quát về thơ ca, hội họa truyền thống của Trung Quốc: tranh vẽ tràn đầy ý tứ như thơ ca. Thơ ca giàu hình ảnh, sắc màu như hội họa. Nhưng làm rõ mối liên hệ thực sự giữa thơ ca và hội họa truyền thống Trung Quốc lại không hề đơn giản. Bài viết chọn ý cảnh như một giao điểm quan trọng của thơ ca và hội họa truyền thống Trung Quốc để có thể triển khai những tìm hiểu ban đầu, nhằm giải mã tương quan giữa hai loại hình nghệ thuật này về mặt lý luận.

MỘT GÓC NHÌN MỚI VỀ TÌNH YÊU TRONG TRUYỆN THƠ TUM TIÊU

Tum Tiêu là một tác phẩm nổi tiếng, một kiệt tác văn học của Campuchia và khu vực. Câu chuyện dựa theo tấm bi kịch có thật, xảy ra vào TK XVI, vùng Tboung Khmum thuộc tỉnh Prey Veng. Câu chuyện được lưu truyền trong dân gian suốt nhiều thế kỷ sau đó. Cái chết vì tình yêu của Tum và Tiêu giống như cái chết của Romeo và Juliet trong thiên bi kịch của đại văn hào W. Shakespeare. Đến cuối TK XIX, Okhna San Thor Voha Mok dựa vào câu chuyện này viết thành truyện thơ Tum Tiêu, nhưng ít được biết đến. Năm 1915, vị sư Bo Tum Therat Som (1852 - 1932) viết lại Tum Tiêu theo thể thơ 7 chữ. Bài viết đem đến một cách nhìn mới, đi sâu giải mã thông tin từ không gian văn hóa vật chất đến không gian văn hóa tinh thần.

QUÁ TRÌNH BẢN ĐỊA HÓA JATAKA TRONG TRUYỆN KỂ DÂN GIAN LÀO

Jataka - những câu chuyện kể về tiền thân (kiếp trước) của Đức Phật (hay Kinh Bổn Sinh), vốn có nguồn gốc từ Ấn Độ, ra đời vào TK II - III trước CN gồm 547 truyện. Do sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kinh điển Phật giáo và kho tàng văn học dân gian phong phú nên được đông đảo độc giả không chỉ tại lục địa Ấn mà nhiều nơi trên thế giới đón nhận, đặc biệt tại Lào và Đông Nam Á. Trong quá trình giao lưu, văn hóa - văn học Ấn Độ, người Lào đã vay mượn cốt truyện, đề tài, hình thức tác phẩm Jataka để tạo lập kho tàng truyện kể độc đáo cho riêng mình. Với ý nghĩa như vậy, Jataka từ một văn phẩm ngoại lai, trải qua quá trình bản địa hóa luôn được tái sinh ở hình thức mới, trở thành tài sản riêng của đất nước triệu voi.

CÂY KHÈN CỦA NGƯỜI MÔNG: TỪ ĐỜI SỐNG ĐẾN TRUYỆN CỔ TÍCH

Một trong những yếu tố góp phần tạo nên bản sắc văn hóa truyền thống của người Mông chính là hệ thống các loại nhạc cụ đặc sắc với thế giới âm thanh đa cung bậc lôi cuốn, hấp dẫn. Trong các nhạc cụ, khèn Mông được coi là tiêu biểu hơn cả. Tiếng khèn phóng khoáng, mang hơi thở của núi rừng, thể hiện rõ nét con người, văn hóa Mông. Từ đời sống, tiếng khèn đi vào thế giới của những truyện cổ tích một cách tự nhiên nhưng cũng là lời nhắc nhở, gửi gắm, giữ gìn vốn văn hóa quý báu của dân tộc.

ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG NHO GIÁO TRONG THƠ CHỮ HÁN DÂN TỘC TÀY

Nho giáo là một học thuyết có ảnh hưởng lớn, sâu rộng và lâu dài ở nhiều nước châu Á trong đó có Việt Nam. Không chỉ góp phần tổ chức và duy trì ổn định trật tự xã hội mà nó còn chi phối đến đời sống tư tưởng, trở thành chuẩn mực đạo đức của nhân dân ta. Các nhà nghiên cứu đều khẳng định Nho giáo có ảnh hưởng không nhỏ đối với văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Các tác giả khi sáng tác luôn thấm nhuần quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. Tuy vậy, cha ông ta từ ngàn đời xưa vẫn luôn có ý thức trong việc tiếp thu một cách chọn lọc để tư tưởng Nho giáo phù hợp với truyền thống và phong tục của người Việt. Nằm trong mạch nguồn chung của văn học chữ Hán Việt Nam, thơ chữ Hán dân tộc Tày cũng thể hiện sự ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo một cách sâu đậm.

DẤU ẤN VĂN HÓA TRUNG QUỐC TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN

Lỗ Tấn, nhà văn lớn có vai trò đặt nền móng cho văn học hiện đại Trung Quốc, từng được Quách Mạt Nhược đánh giá là “trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn”. Truyện ngắn là một bộ phận trọng yếu trong hệ thống “trước tác đẳng thân” của Lỗ Tấn, chứa đựng nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú, có ảnh hưởng sâu rộng cả ở trong và ngoài nước. Trong đó, văn hóa Trung Quốc là thành tố quan trọng góp phần làm nên giá trị truyện ngắn của ông.

NAM TÍNH BÁ QUYỀN ĐÔNG Á VÀ CON ĐƯỜNG KHÚC XẠ QUA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

Ý niệm về nam tính bá quyền được R.W.Connell phát triển từ lý thuyết bá quyền văn hóa của Antonio Gramcsi; nhấn mạnh vào bản chất xã hội của giới tính mà cụ thể là nam tính, cho rằng nam tính được xây dựng nhằm duy trì thiết chế thống trị với các đối tượng phụ thuộc, có vị thế thấp kém hơn như phụ nữ, đồng tính nam, đàn ông da màu... Lý thuyết phương Tây này khi du hành đến Đông Á đã điều chỉnh theo đặc trưng văn hóa, lịch sử của vùng đất này. Xem xét nam tính bá quyền Đông Á dựa trên lý thuyết của R.W.Connell, sự khúc xạ của nó qua một số hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, bài viết mong muốn đóng góp thêm một vài hướng tiếp cận mới về bản sắc văn hóa giới thời kỳ cổ trung đại; làm dày thêm vấn đề nghiên cứu nam tính, vốn vẫn còn bỏ ngỏ ở Việt Nam, nhất trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật.

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CÁI ĐẸP TRONG NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ CỦA Y.KAWABATA

Văn học Nhật Bản mang đặc thù riêng của một nền văn chương duy cảm, duy mỹ. Với người Nhật, mọi vẻ đẹp dù giản dị, khiêm nhường hay kiêu sa lộng lẫy đều thuộc về thế giới quanh ta, đó là cái đẹp đang hiện hữu, rất đời thực. Với giải Nobel văn học năm 1968, Yasunari Kawabata là người đem lại vinh quang cho văn học Nhật Bản nói riêng, văn học châu Á nói chung. Ông kế thừa, phát triển tinh hoa truyền thống của Nhật Bản cả về tính duy cảm, duy mỹ. Bước sang thời đại làn sóng mưa Âu, gió Mỹ từng làm nhiều nhà văn trẻ ngã lòng nhưng Y.Kawabata vẫn tin tưởng rằng “nền văn chương phương Đông, trong đó có kinh phật là nền văn chương vĩ đại nhất của thế giới. Tôi muốn viết một tác phẩm tên là Bài ca phương Đông, tôi có thể chết trước khi bài ca đó thành tựu nhưng hãy biết rằng tôi đã dự trù cả một chương trình trong tâm trí của mình” (1).

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ĐƯƠNG ĐẠI

Trong suốt chiều dài lịch sử văn học dân tộc, người phụ nữ đã trở thành đối tượng phản ánh mang tính truyền thống. Xét riêng trong lĩnh vực văn xuôi, từ văn học dân gian (cổ tích, thần thoại, truyền thuyết…), đến văn học trung đại (truyền kỳ), rồi thời kỳ hiện đại (giai đoạn 1930 - 1945, 1945 - 1975), hình tượng người phụ nữ đa số là biểu tượng của chân, thiện,mỹ, phản ánh những tư tưởng chủ đạo của một thời kỳ, giai đoạn, trào lưu văn học. Từ sau năm 1975, đặc biệt từ thời đổi mới, người phụ nữ đã trở thành hình tượng trung tâm của văn xuôi đương đại, nhưng được thể hiện dưới một cái nhìn mới, ký thác những quan niệm mới của nhà văn về con người. Trên những trang văn của các tác giả nữ, hình tượng người phụ nữ nhận được sự cộng hưởng đáng kể từ chính chủ thể sáng tạo đồng giới với mình, càng trở nên sinh động, chân thực hơn bao giờ hết. Họ vừa mang những nét đẹp, phẩm chất truyền thống, vừa có những đặc điểm giải quy phạm, giải truyền thống, thực sự là những khách thể thẩm mỹ phức tạp, bí ẩn, cần được khám phá.

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NGHỆ SĨ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Vũ Như Tô, Chiếc thuyền ngoài xa, Đàn ghi ta của Lorca là những tác phẩm thuộc ba thể loại khác nhau (kịch, truyện ngắn, thơ) nhưng đều mang đến cho người đọc những hình tượng rất đẹp về người nghệ sĩ: một kiến trúc sư với tài năng siêu phàm; một nhiếp ảnh gia nhân hậu, bản lĩnh; một nghệ sĩ đa tài luôn trăn trở, khát khao cách tân nghệ thuật. Họ đều là những người tài năng, đam mê sáng tạo nghệ thuật. Vũ Như Tô, Phùng, Gaxia Lorca không chỉ mang trong mình khát khao sáng tạo nghệ thuật chân chính, nhân cách cao đẹp mà còn có chung những bi kịch trong nhận thức, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật; thể hiện rõ phương thức truyền tải thông điệp về nghệ thuật, về cuộc đời của nhà văn.

BIỂU TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Heghen từng nhấn mạnh: “Các dân tộc đã ký thác vào sáng tác nghệ thuật những chiêm ngưỡng nội tâm, những biểu tượng của mình. Nghệ thuật thường là chìa khóa, ở một vài dân tộc, đó là cái chìa khóa duy nhất để tìm hiểu sự khôn ngoan, sáng suốt, tôn giáo của họ” (1). Các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đã xây dựng những biểu tượng nghệ thuật, văn hóa trong những tác phẩm của mình. Hệ thống biểu tượng đó thường thuộc về thiên nhiên, con người. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nghiên cứu những biểu tượng thiên nhiên. Tuy nhiên, giữa con người với thiên nhiên luôn có những mối liên hệ không thể tách rời, do đó biểu tượng thiên nhiên suy cho cùng đều mang ý nghĩa văn hóa, phản ánh những vấn đề thuộc về đời sống con người.

TRUYỆN NGẮN VI HỒNG TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM

Lịch sử hình thành và phát triển của văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại chưa phải là dài (khoảng hơn nửa thế kỷ, bắt đầu từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945). Dòng mạch này liên tục được khơi nguồn, đến nay đã có một đội ngũ sáng tác tương đối hùng mạnh với những thành tựu đáng kể, góp phần khẳng định vị trí vững chắc trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong đội ngũ các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Vi Hồng thuộc lớp thế hệ nhà văn đầu tiên. Đóng góp ở rất nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình, nghiên cứu văn học, kịch…mỗi trang viết của ông đã góp phần làm giàu thêm cảm xúc và kinh nghiệm thẩm mỹ cho mỗi độc giả.